Bài 2: Ngân nga ký ức
Mỗi lần lên Điện Biên là một lần được hâm nóng những mạch nguồn lịch sử của cha ông. Điện Biên Phủ hôm nay lại hội tụ, âm vang khúc tráng ca bất hủ về tinh thần yêu nước, ý chí tiến công, tinh thần không có gì quý hơn độc lập, tự do của dân tộc. Biết bao sự hy sinh xương máu của thế hệ cha ông, trong đó có những người con của Vĩnh Phúc đã góp sức làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Bức tranh Panorama phác họa sinh động toàn cảnh Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đền thờ liệt sĩ tọa lạc tại đồi F, thuộc phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, với kiến trúc độc đáo, mỗi chi tiết thiết kế đều có một ý nghĩa đặc biệt, mang giá trị nhân văn sâu sắc, được kết hợp giữa các yếu tố lịch sử, văn hóa và tâm linh. Công trình được khởi công xây dựng vào ngày 13/3/2021 – đúng ngày diễn ra trận đánh mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ cách đây 70 năm và được hoàn thành vào năm 2022.
Xẩm tối, chỉ còn lại đoàn chúng tôi tới dâng hương, ông Nguyễn Hữu Năm, 67 tuổi, người trông nom đền thờ giảng giải: “Những hình vẽ hoa văn vân mây kia như những người lính khi hy sinh biến thành những áng mây trên bầu trời Mường Thanh, những hoa văn mặt trời là ý chí, lòng yêu nước của họ”.
Mỗi chi tiết xuất hiện trong đền thờ mang dáng dấp cổ điển kết hợp với hiện đại đều biểu đạt một ý niệm, hoặc biểu trưng giao hòa giữa âm dương, giữa sự hy sinh và sự sinh tồn vĩnh viễn. Ví như 56 cây đèn như 56 nén hương kết thành hình ngôi sao 5 cánh trên lá quốc kỳ, gợi chúng ta nhớ về 56 ngày đêm chiến đấu, hy sinh của các chiến sĩ; bức phù điêu đặc tả hình ảnh những người lính hy sinh và người sống trở về; 9 ô thông gió đường hầm cửa vào tượng trưng 9 năm kháng chiến trường kỳ… Đền tưởng niệm các liệt sĩ trở thành công trình văn hóa, là điểm nhấn đặc biệt thu hút đông đảo người dân khắp mọi miền đất nước khi có dịp về Điện Biên Phủ.
Những bó hoa đỏ rực được thành kính đặt lên ban thờ cũng như từng nấm mộ khi chúng tôi rời bước tới Nghĩa trang liệt sĩ A1. Nơi đây được xây dựng năm 1958, nằm cách điểm di tích lịch sử Đồi A1 vài trăm mét về phía Nam. Đây là nơi an nghỉ của 644 anh hùng liệt sĩ hy sinh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngoài 4 ngôi mộ lớn khắc tên 4 anh hùng: Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Bế Văn Đàn và Trần Can thì hầu hết các phần mộ còn lại đều là của các liệt sĩ chưa xác định được tên tuổi.
Lòng xót xa, nhớ nhung và dậy lên những cảm xúc khôn tả với bất cứ ai khi đến đây… Nghĩa trang liệt sỹ A1 như một lời nhắc nhở mọi thế hệ ghi nhớ công ơn và noi gương các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh anh dũng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ.
Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên có sức hút lớn với du khách khi đến với Điện Biên.
Tôi bước bên những tấm bia khắc ghi tên của từng liệt sĩ, rưng rưng trước lớp lớp hàng dài tên của những liệt sĩ quê ở Vĩnh Phú… trong đó, hai anh hùng liệt sĩ Chu Văn Khâm và Nguyễn Văn Bạc ở Vĩnh Tường và thành phố Vĩnh Yên còn lại tấm ảnh khắc tên trong Bảo tàng chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn in dấu trong tâm trí tôi.
Thắp một nén nhang, tôi không thể kịp đọc hết từng người, bởi nước mắt nhạt nhòa. Trong trận chiến Điện Biên Phủ đã có hàng nghìn chiến sĩ quê nhà nằm lại mảnh đất này, bên cạnh là đồng đội của các anh ở các tỉnh, thành trong cả nước, “những binh nhất, binh nhì mười tám tuổi”…đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Tôi bất chợt nhớ đoạn văn của tác giả Hữu Nghị trong bài “Các anh đã bất tử trong lòng Điện Biên” viết ngày 4/5/2014: “Nằm lại bên trận địa ác liệt, các anh đã chiến đấu hy sinh, những người con ưu tú của đất nước vẫn luôn nhận được hơi ấm từ nhân dân và đồng đội. Hàng nghìn chiến sĩ quên mình trong Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, nay đã an nghỉ tại những nghĩa trang của thành phố Điện Biên Phủ. Nghĩa trang liệt sĩ Độc Lập, nghĩa trang liệt sĩ Him Lam, nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên Phủ phần lớn là những ngôi mộ “chưa biết tên”. Nhưng lòng yêu nước của người Điện Biên năm xưa vẫn còn đó, để thế hệ tiếp sau không bao giờ quên những chiến công phải đổi bằng xương máu và tuổi thanh xuân. Các anh hy sinh để đất nước còn mãi, còn gì cao quý hơn sự hy sinh ấy!”.
Trở lại Điện Biên lần thứ 2, ông Nguyễn Văn Huân (66 tuổi) ở phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên bồi hồi: “Tôi đã tới Đồi A1, thăm đền thờ, nghĩa trang các anh hùng liệt sĩ và vẫn ấn tượng như lần đầu. Ở nơi này, khi bước chân, hay cúi đầu thắp một nén hương cho vong linh các anh hùng liệt sĩ, tôi thấy nghẹn ngào, xúc động. Mỗi hình ảnh nơi đây đã khơi dậy hồi ức vang dội ngày ấy, sự quyết chí hy sinh để có thể đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Tôi vẫn nhắc nhở các con, cháu mình sống, học tập cho xứng đáng với sự hy sinh cao cả của các anh hùng”.
Chúng tôi có dịp tới thăm gia đình ông Lê Xuân Phong, ở thôn A2, xã Noong Luống, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Ông Phong đã 77 tuổi, quê ở xã Cao Đại, huyện Vĩnh Tường – là một trong số ít con cháu của chiến sĩ Điện Biên năm xưa còn ở đất Điện Biên.
Ngôi nhà giản dị, lối vào rợp bóng cây xanh, ông cùng người vợ bước nhanh ra đón chúng tôi, tâm trạng mừng mừng tủi tủi như lâu rồi mới gặp lại người quê mình.
Rưng rưng một hồi khi nhìn lên di ảnh người chiến sĩ Điện Biên năm xưa – chiến sĩ Lê Xuân Lại, một Điện Biên hào hùng như ùa về khiến chúng tôi và ông Phong mãi mới có thể cất lên lời. Ông chia sẻ: Cha tôi sinh năm 1911 và mất năm 1994. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, cha tôi cùng bao dân công làm nhiệm vụ tiếp tế lương thực cho quân ta… Biết bao gian khổ ngày ấy, khi giặc bắn phá ác liệt, với những chiếc xe thồ thô sơ mà chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ cao cả, đem lương thực đến với chiến trường, dù “mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non” nhưng khí thế ngày ấy mãnh liệt lắm. Khi còn sống trở về, cha tôi kể về Điện Biên lịch sử, chúng tôi thấm thía biết bao những giọt máu đào, sự hy sinh cả tuổi thanh xuân và ý chí kiên cường để tiêu diệt quân thù của quân và dân ta. Chúng tôi hôm nay luôn ghi nhớ công ơn, cùng con cháu tiếp tục sống, làm việc và góp phần xây dựng quê hương, xứng đáng với sự hy sinh của thế hệ cha ông”.
Tiếp nối truyền thống, ông Phong vào quân đội, tham gia kháng chiến chống Mỹ tại Quân khu Tây Bắc trong 5 năm và được tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất. Ông là cán bộ kỹ thuật thủy lợi huyện Điện Biên cho đến khi nghỉ hưu.
Kiến thúc Đền thờ liệt sĩ tại chiến trường Điện Biên Phủ toát lên vẻ uy linh, huyền thoại.
Những câu chuyện về Điện Biên năm xưa cùng với ký ức về chiến sĩ Lê Xuân Lại vẫn còn đọng lại trong tôi tới khi ra về… Với tôi, về chiến trường Điện Biên Phủ là về với miền ký ức thiêng liêng của một thời hoa lửa và những người truyền đi cảm hứng lịch sử oai hùng ấy, từ rất lâu rồi…
Tôi nhớ lại câu chuyện do cụ Trịnh Đình Tứ, cựu chiến binh ở tổ dân phố Lai Sơn, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên kể khi cụ còn sống. Cụ từng là chiến sĩ Đại đội 258, Trung đoàn 141, Đại đoàn 312 năm xưa. Chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị cụ nhận lệnh hành quân từ Thượng Lào về Sơn La, đi Lai Châu. Đó là cả một hành trình gian khổ, thử thách lòng kiên trung của tất cả các chiến sĩ. Ngày đi, đêm nghỉ, chân đau sưng tấy, chảy máu, phải lấy cỏ cây bện thành giày, đi hết ngày nát bươm, lại làm giày mới.
Những chiếc áo trấn thủ (áo 36 đường gian khổ) không thể giặt mà phải luộc lên để giết rận, rệp. Trên đường hành quân, mỗi người phải mang trên vai ít nhất 30kg đồ dùng, khí tài… nhưng vẫn tự hào lắm. Ai đi trên con đường ấy cũng hân hoan ra trận, sắt son niềm tin về ngày chiến thắng.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, hàng ngàn người con của Vĩnh Phúc đã góp công, góp của, hy sinh xương máu để cùng chiến đấu anh dũng bảo vệ đất nước… Từ trong chiến dịch đến công trường Đại thủy nông Nậm Rốm sau chiến thắng Điện Biên Phủ (xây dựng năm 1963 và hoàn thành năm 1969) đã có hơn 2.000 cán bộ, đội viên, trong đó có hơn 800 thanh niên tình nguyện Tháng 8 Thủ đô và thanh niên các tỉnh Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Thái Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh… xung phong lên Điện Biên góp công, góp sức. Họ đã cùng tạo nên mạch sống cho Điện Biên, khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất…
Bài, ảnh: Thu Thủy (Nguồn: baovinhphuc.com.vn)