Hoạt động thẩm tra, xác minh là yêu cầu, là một khâu quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; chất lượng của hoạt động thẩm tra, xác minh có ý nghĩa quyết định đến tính chuẩn xác, khách quan của các kết luận kiểm tra, giám sát và tính công minh, xác đáng của các quyết định kỷ luật; đồng thời giúp tổ chức đảng và đảng viên được kiểm tra, giám sát nhận thấy được mặt ưu điểm để phát huy, hạn chế, khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có) để sửa chữa, khắc phục, phấn đấu tiến bộ. Để đảm bảo phương châm: Công minh, chính xác, kịp thời trong công tác kiểm tra của Đảng trước hết thẩm tra, xác minh phải thật chuẩn xác, không được phạm bất cứ một sai lầm nào. Trong thực tiễn đã chứng minh hầu hết các vụ việc kết luận, xử lý không chuẩn xác, bỏ lọt các hành vi vi phạm, tiêu cực hoặc xử lý chưa thật sự khách quan, công tâm đã gây ra những hậu quả, ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị của tổ chức đảng, đảng viên là do các sai sót, yếu kém, lệch lạc của thẩm tra, xác minh. Thực tế hiện nay, tình hình vi phạm, tiêu cực của một số tổ chức đảng, đảng viên ở một số nơi vẫn diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp, ở nhiều lĩnh vực với mức độ, quy mô khác nhau nhưng chưa được phát hiện kịp thời, hoặc qua kiểm tra chưa được chỉ ra đúng mức; có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng một nguyên nhân cơ bản, sâu xa nhất đó là khâu thẩm tra, xác minh còn một số bất cập, trong đó khâu then chốt quyết định là chưa tìm ra đầy đủ các chứng cứ vững chắc để kết luận vụ việc và xem xét, xử lý, kiến nghị các nội dung có liên quan.
Bí thư Tỉnh ủy Hoàng Thị Thúy Lan phát biểu chỉ đạo tại hội nghị
Mục đích của thẩm tra, xác minh là nhằm tìm ra chứng cứ xác thực để chứng minh rõ hành vi đã diễn ra có hay không vi phạm của đối tượng kiểm tra. Để đạt được mục đích đó đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải có trình độ chuyên môn sâu, nắm vững và chắc nghiệp vụ công tác Đảng, công tác kiểm tra, có phương pháp làm việc khoa học, tư duy logic, linh hoạt, sáng tạo trong quá trình thẩm tra, xác minh. Những yếu tố trên thể hiện ở khả năng phát hiện và xác định chính xác nội dung, đối tượng có liên quan cần phải thẩm tra, xác minh, xác định chính xác mục đích, phương hướng và biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề. Những nội dung cốt lõi của hoạt động thẩm tra, xác minh gồm: tiếp cận nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh, thu thập thông tin, chứng cứ; phân tích, đánh giá, xử lý thông tin, chứng cứ thu thập được.
Trong thực tế hoạt động kiểm tra, tiếp cận đối tượng là khâu đầu tiên quyết định chất lượng thông tin, chứng cứ thu thập được trong quá trình thẩm tra, xác minh. Mục đích của khâu này là làm thế nào để tiếp xúc được với tất cả những người có mối quan hệ, liên quan đến nội dung, đối tượng kiểm tra, trao đổi, thuyết phục, cảm hóa được họ cởi mở, sẵn sàng cung cấp thông tin, chứng cứ xác thực. Bằng cách này, cán bộ kiểm tra sẽ thu thập được những thông tin có liên quan đến nội dung, đối tượng kiểm tra từ nhiều nguồn, nhiều phía. Thông tin có liên quan đến nội dung, đối tượng kiểm tra càng phong phú, nhiều chiều, có độ chính xác cao thì cán bộ kiểm tra càng có cơ sở để giúp UBKT cấp mình đưa ra các kết luận chính xác. Muốn vậy, cán bộ kiểm tra phải chú ý coi trọng và khơi dậy ở đối tượng kiểm tra phát huy tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình, chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng để phát huy trách nhiệm trong công tác xây dựng Đảng của đối tượng kiểm tra. Do vậy, phương hướng chung khi tiếp cận đối tượng là phải tác động đúng tâm lý của họ để được cung cấp thông tin đầy đủ, chứng cứ chính xác, có căn cứ, cơ sở. Nếu khi tiếp xúc đối tượng còn băn khoăn, e ngại thì cán bộ kiểm tra phải tìm cách giải tỏa những băn khoăn, e ngại đó ở đối tượng; nếu đối tượng tỏ thái độ thờ ơ lãnh đạm thì cán bộ kiểm tra phải tìm cách khơi dậy lòng nhiệt tình của họ… Ngoài ra, có thể sử dụng một số biện pháp cụ thể như: trước hết, chọn đối tượng để tiếp xúc có nghĩa là chọn nguồn thông tin. Để chọn được đối tượng có thể cung cấp nguồn thông tin có giá trị cần lựa chọn những người có liên quan với những sự việc mà đối tượng kiểm tra có khuyết điểm, vi phạm; những người có mối quan hệ thân thiện, gần gũi với đối tượng kiểm tra; những người có hiểu biết về đối tượng kiểm tra. Thứ hai là, nắm được đặc điểm tâm lý của đối tượng để có cách khai thác thông tin phù hợp.
Sau khi tiếp xúc được với đối tượng thì công việc còn lại của cán bộ kiểm tra tiếp cận để khai thác thông tin, chứng cứ từ đối tượng. Mục đích của khâu này là thu thập được những thông tin cần thiết có giá trị chứng minh và độ chính xác cao. Phương hướng chung để thực hiện khâu này là: thu thập thông tin bằng nhiều kênh, nhiều nguồn, theo nhiều chiều. Muốn vậy, cán bộ kiểm tra cần thực hiện tốt các phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra đó là dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của đối tượng kiểm tra; phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng; kết hợp với cơ quan chức năng có liên quan. Trước hết, cán bộ kiểm tra viên có thể khai thác thông tin từ lý lịch, để tìm hiểu rõ những ưu, khuyết điểm chính, quá trình công tác của đối tượng thể hiện trong lý lịch hoặc tìm hiểu từ hồ sơ, tài liệu về công việc. Đây là những dữ liệu quan trọng mang tính pháp lý để làm căn cứ cho kết luận thẩm tra, xác minh; từ sự quan sát trong quá trình tiếp xúc trực tiếp với đối tượng mà cán bộ kiểm tra có thể nhận biết, phán đoán được tác phong, sự nhận diện, hiểu biết của đối tượng về nội dung kiểm tra. Thứ hai là sử dụng một số phương pháp khai thác thông tin, ví dụ đặt câu hỏi gián tiếp để thu được câu trả lời khách quan, lật lại vấn đề theo nhiều cách và dưới nhiều góc độ khác nhau…
Sau khi đã tập hợp thông tin phải biết cách phân tích, đánh giá và xử lý thông tin. Mục đích của khâu này là so sánh, đối chiếu để tiếp cận chân lý, tìm ra được sự thật khách quan về bản chất của nội dung, vấn đề được kiểm tra và hành vi của đối tượng kiểm tra. Phương hướng chung để thực hiện khâu này là vận dụng phép duy vật biện chứng một cách cụ thể, sáng tạo để tìm ra các chứng cứ cần thiết. Theo phương hướng này cần chú ý một số vấn đề đó là: Cần so sánh, đối chiếu các loại thông tin, chứng cứ để tìm ra những mâu thuẫn nhằm loại bỏ những thông tin không có giá trị chứng minh, không liên quan đến vụ việc. Cần phân biệt hiện tượng với bản chất, nội dung với hình thức; chú ý liên kết, khâu nối các thông tin, tình tiết rời rạc lại để tìm ra mối liên hệ nhân quả giữa chúng và bản chất của vấn đề. Cần hết sức tránh những định kiến và suy diễn chủ quan cá nhân. Các kết luận phải được rút ra từ sự phân tích, đánh giá chứng cứ một cách khoa học, có căn cứ, cơ sở minh chứng dựa trên phương pháp tư duy khoa học.
Thực tiễn cho thấy có nhiều tổ chức đảng và đảng viên khi được kiểm tra, giám sát đã tự giác trình bày nghiêm túc trước tổ chức đảng có thẩm quyền về ưu điểm, khuyết điểm, vi phạm của bản thân và tổ chức của mình; tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những trường hợp quanh co, giấu giếm, thậm chí tìm mọi cách đối phó, gây khó khăn, trở ngại đối với công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng quản lý đảng viên và tổ chức đảng được kiểm tra, giám sát có nơi thiếu tự giác, còn hữu khuynh, thiếu tính chiến đấu. Mọi hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên bao giờ cũng diễn ra trong không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, với những diễn biến, tình tiết khác nhau, nhiều khi liên quan đến nhiều tổ chức, nhiều người, nhiều cấp khác nhau; có việc còn giữ nguyên bằng chứng, có việc bằng chứng đã bị thất lạc hoặc bị thay đổi... Do đó, đòi hỏi công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng phải coi trọng và làm tốt công tác thẩm tra, xác minh; chưa thẩm tra, xác minh thì chưa được kết luận. Khi thực hiện nhiệm vụ trong công tác kiểm tra, giám sát, cán bộ kiểm tra cần quan tâm, chú trọng thực hiện tốt khâu thẩm tra, xác minh, trong đó quan tâm đến một số nội dung như trên để kết quả kiểm tra, giám sát đảm bảo chính xác, có căn cứ cơ sở, tránh gây oan sai cho đối tượng được kiểm tra.
Tuy nhiên, công tác thẩm tra, xác minh trong một số cuộc kiểm tra, giám sát của một số cấp ủy, UBKT, nhất là đối với cấp cơ sở còn bộc lộ những hạn chế, tồn tại thường gặp đó là: thẩm tra, xác minh không đầy đủ nội dung, đối tượng liên quan đến cuộc kiểm tra, giám sát; cá biệt có trường hợp nằm ngoài nội dung kiểm tra, giám sát; chưa đi sâu, phân tích, làm rõ các khuyết điểm, hạn chế, vi phạm (nếu có) và nguyên nhân từ đó xác định chính xác trách nhiệm của tập thể, cá nhân để xem xét, xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định... Những hạn chế, tồn tại nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân đến từ việc chủ thể kiểm tra, giám sát chưa thực sự coi trọng vị trí, vai trò, nhiệm vụ của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; đối tượng kiểm tra, giám sát hoặc tổ chức đảng, đảng viên có liên quan chưa nêu cao tinh thần tự giác, sự cầu thị, chấp hành nghiêm các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát; cán bộ tham gia các Đoàn kiểm tra, giám sát chưa nhiệt tình, trách nhiệm với công việc hoặc một số trường hợp năng lực, trình độ chuyên môn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, công việc được giao.
Từ những vấn đề nêu trên, để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng nói chung, đặc biệt là đối với công tác thẩm tra, xác minh trong từng cuộc kiểm tra, giám sát, các cấp ủy, UBKT, cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát cần quan tâm, chỉ đạo, thực hiện tốt một số nội dung đó là:
Thứ nhất, Cấp ủy, UBKT các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ; các đồng chí Thường trực cấp ủy, Thường trực UBKT được phân công trực tiếp chỉ đạo các Đoàn kiểm tra, giám sát thường xuyên đôn đốc, chỉ đạo báo cáo tiến độ, kết quả theo kế hoạch, chủ động báo cáo những khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp xử lý để chỉ đạo giải quyết theo quy định. Quan tâm công tác cán bộ ngành kiểm tra, xây dựng kế hoạch, cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nhằm đáp ứng tốt các yêu cầu, nhiệm vụ đã đề ra.
Thứ hai, các Đoàn kiểm tra, giám sát chấp hành, thực hiện nghiêm các quy định về công tác kiểm tra, giám sát: thực hiện tốt quy định về tổ chức, hoạt động của Đoàn kiểm tra, giám sát; phân công nhiệm vụ cụ thể cho thành viên Đoàn, xây dựng lịch trình thẩm tra, xác minh đối với tổ chức đảng, đảng viên có liên quan đến nội dung kiểm tra, giám sát; thẩm tra, xác minh đúng nội dung, đi sâu phân tích kết quả, hạn chế, khuyết điểm, vi phạm (nếu có), chỉ rõ nguyên nhân để từ đó đề xuất những giải pháp xử lý bảo đảm khách quan, thấu tình, đạt lý nhằm giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, tránh oan sai, tránh tình trạng đối tượng kiểm tra, giám sát không tâm phục, khẩu phục; đồng chí Trưởng các Đoàn kiểm tra, giám sát phát huy vai trò, trách nhiệm, bám sát thành viên Đoàn để chỉ đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ đúng quy định.
Thứ ba, cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát, các đồng chí thành viên các Đoàn kiểm tra, giám sát cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình làm việc, tham gia các Đoàn; đầu tư thời gian, công sức, nghiên cứu kỹ các quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước và các quy định liên quan đến nội dung kiểm tra, giám sát để có phương pháp tư duy, kỹ năng tổng hợp, phân tích, đánh giá, nhận xét về những nội dung được phân công phụ trách; thường xuyên trao đổi, phối hợp với các đồng chí thành viên Đoàn, thường xuyên báo cáo, đề xuất với Trưởng đoàn về kết quả, những nội dung phát sinh trong quá trình thẩm tra, xác minh nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của cuộc kiểm tra, giám sát.
Trần Nhật Giang - Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy