Theo nhiều nhà nghiên cứu (xưa và nay) thì Phú Thọ là vùng đồi núi truyền thuyết của Mẹ Tiên, Vĩnh Phúc là vùng biển truyền thuyết của Cha Rồng.
Bốn ngàn năm trước, đất đai tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay đã nằm trong một cõi chung, có điều chưa gọi là tỉnh, là Vĩnh Yên, Phúc Yên, Vĩnh Phúc mà mang địa danh khác, theo cách phân vùng hành chính khác với bây giờ.
Thời đại Hùng Vương, nước ta có Văn Lang. Nước Văn Lang có 15 bộ, trong đó Văn Lang là bộ gốc, trung tâm của nước Văn Lang nằm trên hợp lưu của 3 con sông: sông Thao, sông Đà, sông Lô. Lãnh thổ bộ Văn Lang trải rộng ra hai bên sông Thao, sông Hồng, từ dãy núi Ba Vì sang dãy núi Tam Đảo. Như vậy, đất đai tỉnh Vĩnh Phúc bây giờ nằm trong bộ Văn Lang xưa. Và không phải ngẫu nhiên mà người ta nói, cùng với Phú Thọ, Vĩnh Phúc là một vùng đất cổ, nơi sinh tụ đầu tiên của cư dân nước Việt.
DI CHỈ LŨNG HÒA
Di chỉ nằm trên khu đất cao thuộc cánh đồng đầu thôn Hòa Loan, xã Lũng Hòa, huyện Vĩnh Tường, cách thị xã Vĩnh Yên 14 km về phía Tây Nam, cách Việt Trì 4km về phía Tây, cách sông Hồng nơi gần nhất là 2,5km. Di chỉ Lũng Hòa được phát hiện vào tháng 6/1963 và tiến hành khai quật đợt 1 từ ngày 14/11/1965 đến 1/4/1966. Kết quả khai quật cho thấy:
Các lớp đất được cấu tạo tương đối đơn giản, tầng văn hóa mỏng và đơn thuần, chủ yếu ở lớp đất thứ hai có độ sâu từ 0,40 – 0,60m đã phát hiện và thu nhập được 285 hiện vật gồm 262 hiện vật bằng đá (91,92% tổng số), 23 hiện vật bằng gốm (8,08%), 5.618 mảnh gốm và nhiều cuội tự nhiên.
Đồ đá cũng như đồ gốm ở Lũng Hòa rất gần gũi với đồ đá, đồ gốm ở các di chỉ Phùng Nguyên (Phú Thọ), Văn Điển (Hà Nội). Kỹ thuật đồ đá đạt đến mức cao của kỹ thuật chế tác đá. Đồ gốm rất tiến bộ, hầu hết đã chế tạo bằng bàn xoay. Chưa thấy đồ xương và xương thú vật, chưa thấy xuất hiện đồ đồng.
Trong đợt khai quật này đã phát hiện 22 ngôi mộ, trong đó có 4 ngôi thời hiện đại, 6 ngôi thời Bắc thuộc và quan trọng nhất là 12 ngôi thuộc thời đại đồ đá mới. Các mộ này đều là đơn táng. Người chết được chôn theo tư thế nằm thẳng, nhưng không rõ nằm nghiêng, nằm ngửa hay nằm sấp.
Hiện vật chôn theo trong mộ có 56 chiếc đồ đá, 46 chiếc đồ gốm (gốm rìu, đục, bàn mài, vòng tay, hạt chuỗi, nồi, bình, vật hình cốc…). Đặc biệt trong hầu hết các ngôi mộ đều chôn theo xương hàm răng lợn.
Tình hình hiện vật và mộ táng nói trên chứng tỏ địa điểm khảo cổ Lũng Hòa vừa là một khu di chỉ cư trú, vừa là một địa.
Đây là loại di chỉ nằm ở các doi đất thấp hoặc các doi đất cao ven sông. Ở miền Nam Trung Quốc, về thời đại đồ đá mới, loại di chỉ này được phát hiện nhiều và gọi là “Đài hình di chỉ” Ở nước ta, di chỉ Phùng Nguyên, Văn Điển cũng thuộc vào loại “Đài hình di chỉ” này.
Căn cứ vào loại hiện vật đồ đá, đồ gốm và mộ táng, di chỉ Lũng Hòa có thể ở vào giai đoạn cuối của thời đại đồ đá mới chuyển qua sơ kỳ thời đại đồng thau. Niên đại có thể tồn tại từ 3000-4000 năm trước đây và thuộc về loại hình văn hóa Phùng Nguyên.
Người cổ đại ở đây sống chủ yếu bằng nghề nông, bên cạnh đó đã biết chăn nuôi thêm gia súc và gia cầm, ngoài ra còn săn bắn thú nhỏ và đánh cá sông làm thực phẩm phụ.
Qua các hình thái sinh hoạt kinh tế, phần nào có thể hình dung được tổ chức xã hội đương thời. Tất cả mọi người trong thị tộc cùng lao động, cùng hưởng thụ bình đẳng như nhau. Nhưng do sức sản xuất đã phát triển đến một trình độ nhất định nên những người đứng đầu thị tộc hay bộ lạc có một số đặc quyền nào đó về chính trị cũng giữ một phần nào đặc quyền trong việc phân phối sản phẩm.
Di chỉ Lũng Hòa thuộc loại hình văn hóa Phùng Nguyên. Văn hóa Phùng Nguyên phân bố liền khoảnh trong một vùng rộng lớn, dài hàng trăm cây số hai bên bờ sông Hồng, từ Lâm Thao (phía nam tỉnh Phú Thọ), tỉnh Vĩnh Phúc, miền Sơn Tây (Hà Tây) đến Văn Điển (Hà Nội). Văn hóa Phùng Nguyên là văn hóa vật chất của các bộ lạc thời Hùng Vương ở thời kỳ bắt đầu dựng nước.
DI CHỈ ĐỒNG ĐẬU
Khu di chỉ khảo cổ Đồng Đậu nằm trong gò Đồng Đậu, thuộc địa phận thôn Đông 2, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc. Gò có diện tích khoảng 86.000m2. Nhìn chung gò Đồng Đậu ở ven rìa đỉnh châu thổ Bắc Bộ, nơi giao tiếp giữa những vùng đồi đất đỏ la – tê – rít và vùng đồi tụ của phù sa sông Hồng. Đối với người Việt cổ đang trên quá trình rời bỏ vùng núi tiến về chinh phục khai phá vùng đồng bằng màu mỡ thì đây là một địa điểm lý tưởng.
Di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu được phát hiện vào khoảng tháng 2/1962. Từ cuối năm 1965 đến cuối năm 1999, đã tiến hành 6 đợt khai quật, với diện tích gần 740 m2. Trên đất nước ta chưa có một di tích khảo cổ nào được các cơ quan khảo cổ quan tâm khai quật nhiều lần như vậy. Điều này cho thấy tầm quan trọng của di chỉ Đồng Đậu đối với việc tìm hiểu nguồn gốc dân tộc Việt Nam cũng như quá trình hình thành Nhà nước đầu tiên của dân tộc.
Qua khai quật, các nhà khảo cổ học đã thu nhập được một khối lượng di vật đồ sộ gồm 1.154 đồ bằng đá, 200 đồ bằng đồng, 226 đồng bằng đất nung và 102 đồ bằng xương, sừng.
Nét nổi nhất của đồ đá là sự phong phú, đa dạng, có tới 71 loại, gồm công cụ sản xuất, vũ khí và dụng cụ săn bắt, dụng cụ sinh hoạt, đồ trang sức…. được chế tác từ một trình độ kỹ thuật đỉnh cao và tay nghề thành thạo.
Đồ đồng có 27 loại dùng trong các hoạt động sản xuất, săn bắt, đánh cá… các đặc trưng của di vật phần nào cho thấy người Đồng Đậu đang bước những bước đầu tiên trong việc nắm bắt kỹ thuật luyện, đúc đồng và sử dụng đồ đồng thau vào đời sống.
Đồng Đậu còn là nơi phát hiện được nhiều di vật bằng xương, sừng nhất trong hàng trăm địa điểm đã khai quật ở nước ta (trước năm 1983), không những nhiều về số lượng, phong phú về loại hình mà trình độ kỹ thuật chế tác cũng đã đạt đến đỉnh cao.
Đồ gốm có đồ nấu, đồ đựng, công cụ sản xuất (doi se sợi, khuôn đúc đồng, bi gạch…), tượng người, tượng bò, tượng gà, chạc gốm….
Cùng với các di vật trên, còn thu lượm được một số lượng khá lớn xương, răng động vật và một ít hạt thực vật.
Trong lớp văn hóa Phùng Nguyên (ở độ sâu 2,5m), có 10 hạt thon dài thuộc lúa tẻ, chỉ có một số hạt thuộc dạng bầu dài giống như lúa nếp nương.
Ở lớp văn hóa Phùng Nguyên chuyển lên lớp văn hóa Đồng Đậu (sâu 2m) và Đồng Đậu (sâu 1,2m-1,5m) thấy chủ yếu là hạt thon ngắn cũng thuộc loại lúa tẻ. Trong các lớp này đã bắt đầu có hạt tròn dài (nếp) và tròn ngắn (Di cút).
Trong lớp Đồng Đậu muộn (1,2-1,0m) ngoài các hạt thon dài và thon ngắn (tẻ) có hai hạt bầu ngắn và tròn dài lá lúa nếp.
Như vậy là ở vào giai đoạn Phùng Nguyên (cách đây 4.000-3.500 năm), cư dân Đồng Đậu chủ yếu trồng lúa tẻ. Sang đến giai đoạn Đồng Đậu (cách đây 3.500 năm), mới bắt đầu phân hóa ra lúa nếp và lúa hạt tròn, có thể là tiền thân của lúa Sino Japonica. Có thể giai đoạn này cũng đã phân hóa thành lúa chiêm vì trong các mẫu phân tích, có một số hạt giống với các giống lúa chiêm hiện đại.
Về các di tích và hiện vật, các nhà khảo cổ đã phát hiện 226 di tích và hiện vật gồm:
- 148 huyện đất hình vuông, hình chữ nhật, hình thang cân, hình thoi, hình bầu dục, hình tròn, hình đa giác; trong các huyệt, có dấu tích bếp lửa, than tro hoặc di vật khảo cổ đều thuộc giai đoạn Phùng Nguyên.
- 93 bếp lửa và một hệ thống bếp lửa liên hoàn, hình dáng, cấu trúc các bếp có nhiều loại khác nhau nhưng hầu hết đều chứa đựng tro than và di vật khảo cổ thuộc các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun.
Qua đó cho thấy Đồng Đậu là một di khảo cổ có tầng văn hóa dày, chứa đựng nhiều di vật, là nơi cư trú của con người trong thời gian dài, có nhiều hiện vật.
Căn cứ vào sự khác biệt về chất đá, chất đất và màu sắc cũng như hình dáng và phong cách đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, đồ xương trong các tầng văn hóa, di chỉ Đồng Đậu có thể bao gồm 3 tầng văn hóa có đặc trưng riêng biệt.
Tầng sớm: Đồ đá chiếm tỷ lệ cao nhất so với các tầng văn hóa sau đó. Kỹ thuật chế tác đã đạt đến đỉnh cao. Đồ xương khá phong phú chiếm khoảng 10% số hiện vật trong tầng. Đồ gốm cũng thuộc loại gốm thô, song được pha thêm cát hạt nhỏ nên mịn hơn các tầng khác, độ nung thấp hơn so với cá tầng khác. Đồ đồng chưa thấy xuất hiện; chỉ ở phần trên sát với tầng văn hóa giữa mới có vài cục xỉ đồng nhỏ.
Tầng giữa: Đồ đá khá nhiều, nguyên liệu và kỹ thuật chế tác cơ bản giống đồ đá ở tầng văn hóa sớm, song có khác biệt chút ít về kiểu dáng. Hiện vật bằng xương chiếm tới 19% tổng số hiện vật trong tầng; có thêm loại hình mang tính chất trang sức hoặc tín ngưỡng. Đồ gốm dày hơn, độ nung cao hơn nên gốm cứng hơn tầng văn hóa sớm. Đáng lưu ý là đồ đồng đã xuất hiện, với số lượng khá lớn chiếm khoảng 20% số hiện vật trong tầng và trên 50% số di vật đồng thu lượm được ở Đồng Đậu. Kỹ thuật luyện đúc đồng đã đạt trình độ khá cao.
Tầng muộn: Đồ đá có số lượng ít. Đồ gốm có phần tho hơn. Đồ đồng chiếm khoảng 45% tổng số hiện vật thu được trong tầng. Kỹ thuật không ngừng tiến bộ.
Theo thời gian niên đại di chỉ Đồng Đậu có thể chia như sau:
Tầng văn hóa sớm: có đủ đặc trưng của văn hóa Phùng Nguyên. Có nhiều khả năng là chủ nhân của tầng văn hóa sớm Đồng Đậu trong một thời gian dài chưa biết kỹ thuật luyện đồng, chỉ đến giai đoạn cuối mới biết đến kỹ thuật tiến bộ này. Và tầng văn hóa sớm Đồng Đậu có thể tồn tại từ cuối hậu kỳ đá mới đến sơ kỳ thời đại đồng thau.
Tầng văn hóa giữa: Có thể thuộc vào giai đoạn cuối của sơ kỳ thời đại đồng thau hoặc đã bước sang trung kỳ thời đại đồng thau.
Việc xác định niên địa tuyệt đối của di chỉ Đồng Đậu, có kết quả như sau:
- Tầng văn hóa sớm: 3500+100 năm tức khoảng 1470+100 năm trước Công nguyên.
- Tầng văn hóa giữa: 3070 + 100 năm tức khoảng 1095+120 năm trước Công nguyên.
- Tầng văn hóa muộn: 3045 + 100 năm tức khoảng 1120 + 100 năm trước Công nguyên.
Di chỉ Đồng Đậu tồn tại trong khoảng 1000 năm mà niên địa khởi đầu vào khoảng 1500 năm TCN, kéo dài từ giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, qua văn hóa Đồng Đậu đến văn hóa Gò Mun, tức vào khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ VIII TCN, nằm trong quá trình dựng nước của các Vua Hùng.
Qua khảo sát và nghiên cứu, các nhà khoa học dã có những khái quát về cuộc sống thời xưa ở Đồng Đậu.
Điều kiện thiên nhiên ở đây rất thuận lợi cho cuộc sống của con người. Với đất phù sa màu mỡ, lại sẵn ao hồ đầm lầy, gần sông, tiện nước, con người đã định cư lâu dài ở đây và từ những ngày đầu tiên họ đã quen thuộc với nghề làm ruộng. Nghề nông đã có trình độ khá cao và giữ vai trò chủ đạo trong các ngành sản xuất, có thể lúa nước lúa nước là nguồn cung cấp lương thực chính.
Bên cạnh nghề nông, nghề chăn nuôi cũng đã ra đời và dần phát triển từ thấp lên cao. Người Đồng Đậu còn chú ý đến săn bắn và đánh cá.
Bên cạnh nghề nông, thủ công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Đó là những nghề làm đá, đan lát…Nghề luyện, đúc đồng ra đời muộn hơn nhưng có ảnh hưởng lớn đến đời sống.
Trên cơ sở đời sống kinh tế ngày một nâng cao, dư dân Đồng Đậu luôn chú ý đến cái đẹp. Nhận thức về cái đẹp rõ nét trên kiểu dáng và hoa văn đồ gốm, trên sự phong phú về số lượng cũng như kiểu dáng khác nhau của đồ trang sức, trong các pho tượng đất đỏ nặn hình bò, gà và đầu người…
Xã hội lúc này vẫn là công xã thị tộc; và với nên kinh tế nông nghiệp lúa nước ra đời, vai trò của người đàn ông đã được đề cao hơn, xã hội có thể thuộc chế độ công xã thị tộc phụ hệ.
Sự phát triển của sức sản xuất ở giai đoạn cuối Đồng Đậu đã đẩy mạnh quá trình phân hóa thành các giai cấp xã hội đưa đến sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, để thành lập Nhà nước trong giai đoạn tiếp theo.
Cuối năm 1999, Viện Bảo tàng lịch sự Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin – Thể thao tổ chức đợt khai quật thứ 6 trên diện tích 71m2. Kết quả lần này có thêm 2 phát hiện mới:
Ở lớp văn hóa Phùng Nguyên thu thập được nhiều hạt gạo cháy. Đặc biệt, cùng ở lớp văn hóa Phùng Nguyên, phát hiện một bộ xương khá nguyên vẹn của người Việt cổ nằm ở độ sâu 3,20m; ở cánh tay phải còn đeo một chiếc vòng tay bằng đá nguyên. Qua giám định bước đầu của các nhà khoa học: Đây là hài cốt của người đàn ông, cao khoảng 1,56m, độ tuổi 44-45.
Tầm quan trọng của hiện vật Đồng Đậu không chỉ ở số lượng, mà còn làm nên vóc dáng Đồng Đậu là một quá trình phát triển liên tục để đi đến hình thành Nhà nước phôi thai đầu tiên của dân tộc.
….Có thể nói giai đoạn Đồng Đậu là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất ở đây, tầng văn hóa rộng và dày, hiện vật phong phú đa dạng; bên cạnh đó đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, đồ xương cũng phát triển.
Như vậy, qua các di chỉ khảo cổ, có thể khẳng định vững chắc hơn: Vĩnh Phúc là một trong những vùng đất cổ, con người đã sinh sống từ cách đây 3500 – 4000 năm.
Bên cạnh những di chỉ khảo cổ học mang ý nghĩa cội nguồn, Vĩnh Phúc cũng là một vùng đất phong phú những di tích lịch sử và di sản văn hóa, tạo nên một nét riêng độc đáo, đầy ma lực.
Giáp với Thủ đô Hà Nội về phía Tây Bắc, Vĩnh Phúc là một trong “tứ trấn” phên giậu của kinh thành Thăng Long xưa, thuộc vùng văn hóa giữa, chuyển tiếp từ khu vực miền núi phía Bắc xuống đồng bằng sông Hồng. Tuy diện tích và dân số không lớn (1.371,4 km2; 1.154.000 người) song tổng quan, Vĩnh Phúc là một chỉnh thể địa – văn hóa ổn định. Về tự nhiên có đủ 3 vùng miền núi, trung du và đồng bằng với núi cao Tam Đảo phía Bắc, sông lớn Hồng Hà phía Tây, đồng bằng màu mỡ phía Nam và Tây Nam. Vĩnh Phúc tự hào là quê hương của Hai Bà Trưng khởi nghĩa, của danh tướng Trần Nguyên Hãn, của lãnh tụ nông dân khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương – Quận Hẻo, anh hùng khởi nghĩa Thái Nguyên – Đội Cấn, Chủ tịch Quốc dân đảng Nguyễn Thái Học cùng hàng trăm nhà khoa bảng, tiến sĩ danh tiếng các triều.
Trên nền tự nhiên – lịch sử - văn hóa ấy, những chứng tích vật thể đình đền chùa miếu còn lại ở Vĩnh Phúc có mật độ đậm đặc, loại hình phong phú và có tính liên tục không cách quãng. Các giá trị văn hóa truyền thống lưu lại thông qua các di tích lịch sử văn hoá đa dạng, góp vai trò quan trọng vào việc thu hút khách du lịch. Toàn tỉnh hiện có 967 di tích lịch sử văn hoá, trong đó 288 di tích được xếp hạng cấp Quốc gia, trong đó nổi bật là cụm di tích Tây Thiên (khu danh thắng Tây Thiên, đền thờ Quốc Mẫu Năng Thị Tiêu, Thiền viện trúc lâm Tây Thiên), tháp Bình Sơn, đền thờ Trần Nguyên Hãn, đình Thổ Tang, cụm đình Hương Canh, chùa Hà Tiên, di chỉ Đồng Dậu... Không chỉ có nền văn hoá vật thể phong phú, Vĩnh Phúc còn có nền văn hoá phi vật thể cũng đa dạng, hấp dẫn có giá trị du lịch cao, đó là các phong tục tập quán, hệ thống các lễ hội, các trò chơi dân gian, văn hoá nghệ thuật, thi ca, ẩm thực…
LỄ HỘI TÔN VINH ANH HÙNG LỊCH SỬ
Hội làng Hạ Lôi
Theo một số tài liệu ghi chép lại, hội làng Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh xưa mở vào Rằm tháng Giêng hằng năm. Hiện nay, hằng năm, hội mở vào ngày mồng Sáu tháng Giêng. Ca dao ở đây còn ghi:
Có về thăm hội Hạ Lôi,
Tháng Giêng mùng Sáu cho tôi đi cùng.
Kiệu Bà đi trước kiệu Ông,
Nữ binh hộ giá khăn hồng hài hoa.
Tương truyền ngày mồng Sáu tháng Giêng là ngày Hai Bà Trưng mở tiệc khao quân, sau này dân làng mở hội vào ngày đó để kỷ niệm. Mỗi năm tới dịp hội, người ở các nơi kéo về rất đông. Hội có lệ cúng bánh giầy và biểu diễn một số trò vui cổ truyền như đấu cờ, nhún đu..., những năm gần đây còn có đấu vật rất sôi nổi. Song, đặc sắc nhất của hội là lễ rước kiệu hội đồng hay còn gọi là đám rước tập trận.
Từ giữa tháng Chạp, làng đã chọn khoảng 150 cô gái xinh đẹp và 70 chàng trai tuấn tú làm chân kiệu, chân cờ, lọng..., tập luyện rước kiệu rất chu đáo. Đền có ba cỗ kiệu: hai kiệu rước thánh vị Hai Bà, và một kiệu rước thánh vị ông Thi Sách - chồng bà Trưng Trắc. Kiệu Thi Sách sơn đen tuyền (theo truyền thuyết Thi Sách chết vì đao kiếm nên kiệu sơn đen), kiệu Hai Bà sơn son thếp vàng. Sáng mồng Sáu tháng Giêng, sau tiệc tế ba tuần rượu, trống chiêng nổi ba hồi chín tiếng thì bắt đầu sửa soạn cuộc “rước hội đồng”.
Những người tham gia tập trung trước sân đền theo hàng lối chỉnh tề. Như nhiều đám rước khác, đi đầu bao giờ cũng là các lá cờ thần, cờ hội. Trong đền, ba kiệu được sắp xếp theo thứ tự: đầu tiên là kiệu Thi Sách, tiếp đến là kiệu Trưng Trắc, cuối cùng là kiệu Trưng Nhị. Khi xuất phát, kiệu Thi Sách do 32 chàng trai khiêng, đi cạnh là 32 người dự bị để có thể thay phiên nhau. Những người này đều mặc lễ phục: áo dài quần trắng, thắt lưng màu, buộc thành múi ở bên sườn trái, đầu chít khăn lượt. Còn kiệu Hai Bà do các cô gái đồng trinh, cùng số lượng như vậy khiêng. Họ đều mặc áo dài tứ thân màu nâu, hai vạt thắt lưng buộc ra sau, đầu chít khăn màu hồng, chân đi hài.
Khi đã sắp xếp cẩn thận, đám rước bắt đầu trong tiếng chiêng, trống, tiếng nhạc của phường bát âm rộn rã cùng tiếng người dự hội rộn ràng tạo nên một khung cảnh sôi động và nhộn nhịp. Qua khỏi cổng đền ra tới đường trống quân thì kiệu của Thi Sách dừng lại, nhường hai kiệu kia lên trước. Tục này gọi là giao kiệu với ý nghĩa “nội gia huynh đệ, ngoại quốc quân thần” (trong nhà là anh em, ra ngoài việc nước là vua tôi). Cứ theo thứ tự như vậy ra tới đường liên thôn thì rẽ trái, men theo chân đê sông Hồng, rước kiệu xuống sông lấy nước rồi quay về đình hội đồng với các vị thần khác được thờ trong đình. Trở về đền, thứ tự các kiệu lại có sự thay đổi: kiệu Thi Sách tiến trước, qua cửa giữa vào đền, rẽ sang phải (phương đông) tiến lên sân trên trước nhà tiền tế; kiệu bà Trưng Trắc tiếp theo sau, cuối cùng là kiệu bà Trưng Nhị.
Theo nguồn tài liệu cũ, trong khi rước, hai bên nam, nữ luôn hò reo và đồng thanh hát một bài ca cổ, tương truyền là do chính Hai Bà đặt ra để cổ vũ nhân dân và quân lính. Sau phần nghi thức tế lễ và rước kiệu là các cuộc vui nhân dịp đầu xuân. Đặc biệt, ở hội đền Hai Bà những năm sau này còn tổ chức thêm giải đấu vật.
Lễ hội Tây Thiên
Lễ Tây Thiên trong quá khứ Chuẩn bị: công việc chuẩn bị cho dịp lễ Tây Thiên được tiến hành từ tháng 11 Âm lịch của năm trước đến khoảng tháng 2 Âm lịch năm sau. Theo phong tục, mỗi năm dân trong xã bầu ra một đoàn tế gồm 30 người. Đoàn tế này sẽ bầu chọn một vị chủ tế, ba vị bồi tế, hai xướng tế, một người đánh chuông, một người đánh trống và phường bát âm, đồng thời tiến hành phân bổ việc đóng góp vật chất và sắp xếp các công việc trong dịp lễ. Chủ tế thường là bậc cao niên, khỏe mạnh, gia đình song toàn, đông đúc.
Nghi lễ: theo tư liệu các cụ già địa phương cung cấp, sau khi công việc chuẩn bị cho lễ tế đã hoàn tất, sáng 15 tháng 2 Âm lịch, 14 xóm thuộc xã Đại Đình tham gia rước Thánh Mẫu từ đền Mẫu Sinh ra chùa Ngò rồi về đền Thõng.
Lễ vật dâng cúng thần linh gồm xôi, lợn quay, gà, hoa quả, ngoài ra còn có bánh giầy, chè lam, xôi đen và thịt chua của người Sán Dìu. Một trong những điểm đặc biệt làm nên nét đặc trưng của lễ Tây Thiên xưa là thức ăn trong mâm lễ được đựng bằng lá cây.Mâm cơm này nhằm hồi tưởng lại ngày chiến thắng trở về của Thánh Mẫu Lăng Thị Tiêu và nghĩa quân, vì thiếu đĩa để đựng thức ăn nên Thánh Mẫu đã truyền lấy lá rừng làm bát đĩa.
Để có được mâm cỗ mang đầy đủ ý nghĩa về mặt tâm linh, người ta phải chuẩn bị hết sức công phu ngay từ khâu chọn nguyên liệu. Nguyên liệu làm cỗ gồm có:
- Một con lợn khoảng 25 - 30 kg
- Gạo nếp nương
- Hoa quả các loại
Sản vật cúng tế phải tuân theo những nghi thức sau: lợn tế xưa kia do một tốp trai đinh khỏe mạnh trong làng vào rừng đặt bẫy hoặc săn bắt mang về, sau này không được săn bắt nữa thì phải nuôi hặc mua, nhưng lựa chọn rất kỹ càng. Lợn tế phải khỏe mạnh, có tướng đẹp, đạt mọi tiêu chuẩn mà làng yêu cầu. Gạo nếp nương phải chọn loại hạt chắc, mẩy, đều.
Hình thức trình bày mâm cỗ cổ khá phức tạp. Mâm cỗ được bày theo hình bát quái, theo các cung (Càn, Khảm, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài), mỗi vị trí ứng với một ước nguyện của dân làng cầu xin trời đất, thánh thần phù hộ và giúp đỡ:
- Đầu lợn khắc chữ “Càn” để tế trời hay còn gọi là “Cha Thiên”.
- Các bánh xôi nếp trắng xếp hình chữ “Khôn” để tế đất hay còn gọi là “Mẫu Địa”.
- Hai bánh xôi đen của người Sán Dìu tượng trưng cho “Ngũ hành” (Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ) để tế Thánh và Chúa Ngàn.
- Một bát tiết canh theo tục tế mao huyết trong xướng tế vì có sát sinh.
- Hai chiếc bánh gù.
- Hoa quả tượng trưng cho bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông).
- Hai bát nước canh là biểu tượng của “Thủy phủ”, tạo cho mâm cỗ có đầy đủ cả Thiên phủ, Địa phủ, Nhạc phủ và Thủy phủ (thể hiện tín ngưỡng thờ Mẫu cổ truyền của người Việt).
- Miệng của con lợn tế há to tượng trưng cho sự “Ngưỡng Thiên”; lục phủ ngũ tạng
của con lợn tế phải còn nguyên vẹn và các món được sắp xếp theo trục bát quái.
- Bánh chưng: là vật phẩm đặc trưng của lễ Tây Thiên xưa vì theo truyền thuyết và huyền phả Hùng Vương, Thánh Mẫu Lăng Thị Tiêu chính là vợ của Hoàng tử Lang Liêu
- người sau này lên ngôi Vua Hùng thứ 7, hiệu là Hùng Chiêu Vương. Vợ chồng Lang Liêu dâng lên vua cha lễ vật quý báu nhất (bánh chưng, bánh giầy) tượng trưng cho trời và đất nên đã được vua cha truyền cho ngôi báu. Tương truyền sau khi lên ngôi, vua và Thánh Mẫu đã dạy dân làm bánh chưng và bánh giầy để hằng năm cúng tế tạ ơn tổ tiên, trời đất. Bánh chưng được làm bằng gạo nếp cái hoa vàng, nhân gồm đậu xanh và thịt lợn. Sau này, bánh chưng trở thành loại bánh cổ truyền của dân tộc trong dịp Tết Nguyên đán.
- Bánh giầy: cũng được làm bằng loại gạo nếp cái hoa vàng đặc biệt, người ta đồ xôi chín rồi cho vào cối giã mịn, sau đó lấy ra chia thành từng chiếc bánh tròn, dẹt, to bằng chiếc bát loa, cuối cùng dán một dấu đỏ bằng giấy điều vào giữa chiếc bánh rồi bày lên mâm lễ.
- Xôi trứng kiến đen và bánh trứng kiến: là hai đặc sản nổi tiếng của đồng bào Sán Dìu dâng lên cúng tế Thánh Mẫu vào mỗi dịp lễ. Hai món lễ vật này được chế biến rất cầu kỳ. Trước tiên, người dân phải lên núi, vào rừng sâu lấy trứng kiến đen về làm nhân bánh và trộn vào xôi cùng với đỗ xanh. Bánh trứng kiến được gói hai lớp lá cây vả (có nơi còn gọi là cây ngõa), lớp ngoài gói lá già, lớp trong gói lá non.
- Thịt chua và xôi đen: quy trình chế biến hai món này không phức tạp nhưng phải thật chính xác để có thành phẩm đẹp. Thịt chua phải có màu hồng và dính một chút màu vàng sẫm của bột thính làm bằng gạo rang thơm. Thịt được bày lên trên một số loại lá rừng có vị chát và thơm hăng hắc có thể ăn được. Xôi đen phải đen bóng, dẻo và nếm có vị ngậy.
Sau khi kết thúc lễ tế ở đền Thõng, các trai đinh trong đám rước cùng ban tế khiêng mâm cơm cúng lên đền Thượng trên đỉnh núi Thạch Bàn để cúng tế Thánh Mẫu Lăng Thị Tiêu. Lễ tế xong xuôi, các vị chủ tế rước thần vị của Thánh Mẫu hoàn cung, lễ vật đã cúng tế (lộc thánh) được chia đều cho những người tham gia đoàn tế.
Ở Tây Thiên có cả một hệ thống đền, chùa, miếu rất phong phú, nên sau lễ tế chung của 14 xóm, từng xóm sẽ tổ chức lễ tế riêng. Có năm các xóm cùng tổ chức tế vào ngày lễ chung (15 - 2 Âm lịch), song, thông thường, các xóm tổ chức tế trước ngày 15 - 2.Ngoài phần tế lễ, dân làng còn lo nấu nướng, làm cỗ phục vụ cho việc ăn uống tiệc tùng. Trong suốt mấy ngày lễ, nhà nào cũng chuẩn bị cỗ bàn cùng với một phần lộc nhỏ được chia trong lễ đại tế của làng và các loại bánh trái, hoa quả, rượu thịt... Từ ngày 14 đến ngày 15 tháng 2 Âm lịch (ngày hóa thân) chính lệ có tổ chức tiệc giết trâu, bò, ca hát. Ngày 28 tháng 2 Âm lịch chính lệ mở tiệc khao binh. Ngày 29 tháng 2 Âm lịch có lệ khai sắc, dùng lễ tam sinh bản huyện đồng tế. Ngày 1 tháng 3 Âm lịch, hàng tổng mở tiệc tế lễ. Phần lễ nói trên, một mặt chứng tỏ tính cố kết cộng đồng bền vững của làng xã tại đây, mặt khác cũng phản ánh tàn dư của chế độ phong kiến thể hiện qua việc phân chia đẳng cấp, vai vế, ngôi thứ, tuổi tác, tôn ti, trật tự... trong việc lựa chọn chủ tế, bồi tế, chấp sự, khiêng kiệu...
Trong lễ Tây Thiên ngày xưa thường có hát giao duyên của người Sán Dìu (hay còn gọi là soọng cô).Liên quan đến lễ Tây Thiên còn có một tục lệ đặc trưng của người dân địa phương, đó là tục kết chạ. Thực chất đây là hình thức kết nghĩa giữa 14 xóm thuộc xã Đại Đình, họ cùng nhau chung sức chung lòng trong lao động sản xuất, phòng chống thiên tai và nhất là trong việc tổ chức lễ hội của làng. Hằng năm, vào dịp lễ Tây Thiên, 14 xóm của xã Đại Đình đều cắt cử ra một đoàn gồm các bô lão, nam nữ thanh niên, các đội tế... đến chuẩn bị và tham gia tổ chức lễ hội. Nhờ đó, người dân các xóm càng có dịp để gần gũi, gắn bó với nhau.
Lễ Tây Thiên xưa kia không có hội; kết thúc phần tế lễ, nhân dân và du khách thập phương ra về hoặc lên núi Thượng tham quan vãn cảnh.
Lễ hội Tây Thiên ngày nay
Trước đây, lễ hội Tây Thiên do các cụ già địa phương đứng ra tổ chức, hiện nay có sự tham gia của chính quyền tỉnh, huyện. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, khu di tích và danh thắng Tây Thiên trở thành căn cứ địa cách mạng. Nhìn chung, trong suốt thời gian chiến tranh (chống Pháp, chống Mỹ), lễ Tây Thiên gần như bị “lãng quên” do điều kiện khó khăn, hơn nữa do tác động của phong trào bài trừ mê tín dị đoan và sau đó là chính sách “tiêu thổ kháng chiến” nên phần lớn đền chùa bị phá hoại hoặc bỏ hoang. Các cụ già ở địa phương chỉ cúng giỗ đơn giản tại nhà để nhắc nhở con cháu sau này phải nhớ ngày hội mà cúng tế cho phải phép. Đến tận những năm 90 của thế kỷ XX, lễ hội Tây Thiên mới lại được phục hồi. Đặc biệt, năm 1991, khu di tích danh thắng Tây Thiên được Nhà nước xếp hạng di tích danh thắng cấp Quốc gia, tỉnh Vĩnh Phúc đã quy hoạch khu vực này thành khu du lịch trọng điểm.
Lễ hội Tây Thiên từ thời điểm 1991 đến nay đã có khá nhiều biến đổi so với lễ Tây Thiên truyền thống. Theo người dân địa phương, về cơ bản, khâu chuẩn bị vẫn được duy trì như trước, nhưng phần nghi lễ giản tiện hơn. Chiều ngày 13 tháng 2 Âm lịch, đoàn tế của xã cùng các cơ quan văn hóa trong huyện - xã lên đền Thượng làm lễ tế cáo nhằm báo với Thánh Mẫu rằng ngày 15 sẽ tổ chức lễ. Lễ vật cúng tế lúc này gồm có lợn quay và hoa quả.
Sáng 15 tháng 2 Âm lịch, đoàn tế cũng tổ chức rước kiệu từ đền Mẫu ra chùa Ngò rồi về đền Thõng. Lễ vật gồm: xôi, lợn quay, hoa quả, bánh giầy, bánh gù, oản chay, tất cả được xếp lên mâm, không bài trí cầu kỳ như trước đây.
Lễ hội Tây Thiên ngày nay, ngoài phần lễ còn có thêm phần hội, thu hút đông đảo người dân và du khách tham gia. Các hoạt động chính trong hội gồm có: tổ chức trò chơi (cờ người, cờ tướng, đấu vật, kéo co, chọi gà, bóng chuyền...); vài năm gần đây còn thi làm bánh gù, bánh giầy. Đặc biệt, từ năm 2010, trong lễ hội Tây Thiên còn có hát văn. Cũng theo người dân địa phương, hình thức hát soọng cô không còn xuất hiện trong lễ hội Tây Thiên tại đền Thõng, mà chỉ có ở các đền Quốc Mẫu của người Sán Dìu.
Chiều tối 16 tháng 2 Âm lịch, kết thúc lễ tạ tại đền Thõng. Thời gian tổ chức và quy mô của lễ hội Tây Thiên hiện nay tuy không lớn bằng các lễ hội Quốc gia như lễ hội Đền Hùng, lễ hội Chùa Hương, lễ hội Yên Tử..., song, do đặc thù về vị trí địa lý, cảnh quan thiên nhiên và ý nghĩa văn hóa, tâm linh của địa danh Tây Thiên nên lượng du khách đổ về hành hương không thua kém các lễ hội lớn đã nêu. Nếu so sánh, có thể thấy, Tây Thiên và Yên Tử có nhiều điểm tương đồng về cảnh quan thiên nhiên. Hai địa danh này đều là nơi đất Phật linh thiêng, có chùa và nhiều tháp mộ của các Thiền sư đã tu hành ở đó. Đặc biệt, ở Tây Thiên còn lưu giữ được các chùa thờ Phật có từ thời Lý cùng hệ thống đền, miếu thờ Thánh Mẫu Lăng Thị Tiêu, Cậu Bé, Cô Bé, v.v... trải dài từ chân núi lên đến tận gần đỉnh núi. Nhân dân nơi đây đã phối thờ Phật và Mẫu trong tín ngưỡng của mình, vậy nên lễ hội Tây Thiên vô cùng phong phú. Du khách về Tây Thiên dự lễ thường tin vào sự linh thiêng của Thánh Mẫu; họ đi lễ cầu tự, cầu may, cầu danh, cầu lợi... vào dịp đầu xuân, rồi lại đi trả lễ vào dịp cuối năm, nên quanh năm khu di tích và danh thắng Tây Thiên không khi nào vắng khách.
Lễ hội Tây Thiên phản ánh một thời đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của thời gian và lịch sử, lễ hội Tây Thiên vẫn được gìn giữ và phát triển trong đời sống văn hóa mới. Lễ hội Tây Thiên ngày nay tuy đã có nhiều thay đổi so với truyền thống và cũng tích hợp thêm nhiều yếu tố hiện đại, song về cơ bản, những giá trị văn hóa và ý nghĩa tâm linh vốn có của nó vẫn được bảo lưu và lan tỏa trong tâm thức cộng đồng.
Hội làng Bạch Trữ
Làng Bạch Trữ thuộc xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh (nay thuộc Hà Nội).Làng thờ hai vị thần: Mỵ Nương Công chúa (con gái của Vua Hùng thứ 18, vợ của Đức Tản Viên Sơn Thánh, người có công chiêu dân và lập ra làng Bạch Trữ - một vùng Nam thiên cổ tích địa”) và Hoàng Cống (tức Cống Sơn), quân sư của Hai Bà Trưng.Mỗi năm ở Bạch Trữ có năm lễ hội chính:
- Tháng Giêng: ngày mồng Mười là ngày sinh của Đức Thánh Cống Sơn, có hát chèo Tàu, đánh vật đến hết ngày 15. Hằng ngày có lễ tế ở đình.
- Tháng Hai: khánh hạ rước bà Công chúa, từ ngày mồng Một đến ngày mồng Mười, làng mở hội, có các trò chơi: đánh cờ người, bắt chạch trong chum, bắt vịt dưới sông, đánh đu, rước kiệu Đức Bà từ miếu về đình.
- Tháng Tám: nhân ngày sinh của Đức Bà Công chúa, làng mở hội từ chiều mồng Chín đến hết ngày Mười lăm. Tổ chức rước kiệu từ miếu về đình để tế lễ vào ngày mồng Mười. Ngày Mười lăm tế tạ, rước kiệu từ đình về miếu; lúc chuẩn bị rước kiệu về miếu, ở sân đình tổ chức tung bông.
- Tháng Một: Đức Bà Công chúa phụ hóa nhật, tám giáp làm tám cỗ bánh giầy mang ra đình thi.
- Tháng Chạp: Đức Ông phụ hóa nhật, ngày 11 mở tiệc giỗ trận tưởng nhớ chiến công của Hoàng Cống.
Lễ hội đình Cả năm làng Tích Sơn
Xã Tích Sơn nay thuộc phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên. Sự tích của lễ hội đình Cả được lưu truyền như sau: vào đầu đời Trần, bảy anh em họ Lỗ đều giữ chức “điển bình” trong quân đội triều đình, cùng nhau coi giữ động Đinh Sơn (núi Đanh) và các xã xung quanh. Tháng Chạp năm Nguyên Phong thứ Bảy đời vua Trần Thái Tông (1257), quân Nguyên Mông xâm lược Đại Việt. Vua Trần xuất quân đánh giặc, bảy anh em họ Lỗ theo vua ra trận.
Sau khi đất nước thanh bình, bảy vị trở về quê, làng Bồ Lý ngày nay. Trên đường về tới núi Đanh thì hóa. Mộ táng ở dưới chân núi. Nhân dân tưởng nhớ bảy anh em họ Lỗ nên lập đền thờ, trong đó đình Cả - Tích Sơn là nơi thờ chính.Trong một năm, đình Cả có nhiều ngày lễ. Riêng ngày mồng Ba tháng Giêng, làng tổ chức lễ hội Thảo tặc khao binh, tái hiện khí thế ra trận giết giặc mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258). Lễ hội này được tổ chức tại đình Cả
Tích Sơn, chung cho năm làng nên gọi là lễ hội đình Cả năm làng Tích Sơn. Ngày mồng Hai Tết Nguyên đán, từ sáng sớm, tất cả dân làng và các trai đinh tề tựu ở sân chùa Ngũ Phúc (chùa chung của năm làng thuộc xã Tích Sơn) làm lễ “tụ quân”, tức là tập hợp quân số của hai giáp để vào tiệc. Các trai đinh vào phe được gọi là “quân” của thất vị Lỗ Đinh Sơn (bảy vị thần họ Lỗ trên núi Đanh), và chỉ những người này mới được vào “làm tiệc” - nữ không được tham gia.
Đêm mồng Hai, “quân” của hai giáp vào làm lễ Thánh và được ăn uống. Đang ăn dở dang thì có pháo lệnh, quân hai giáp liền chạy về điểm tụ quân. Quân giáp phía đông tụ ở đình Chợ, quân giáp phía tây tụ ở cầu Giáp Lão. Đến đầu giờ Hợi (21 giờ) mới tiến về nhà nuôi lễ ở đình Cả nghỉ ngơi.
Vào tiệc, giữa giờ Hợi (22 giờ) là khi sắp ăn đêm thì có tiếng reo hò. Quân bỏ bữa ăn, đốt đuốc xông thẳng vào “chuồng lễ”, phá “chuồng lễ”, đuổi bắt “ông lễ” (lợn lễ) trói lại, khiêng ra đình. Theo tục lệ, ai bắt được “ông lễ” sẽ khiêng đầu đòn thứ nhất (đi trước), đầu kia (đi sau) dành cho một “quân”. Có hai “ông lễ” của hai giáp. Lễ của giáp nào do quân giáp ấy bắt và đặt riêng theo giáp ấy. Lễ của giáp Đông đặt ở phía đông cửa thần điện, lễ của giáp Tây đặt ở phía tây cửa thần điện.
Vị chủ lễ vào “xin chân keo”, xin âm dương bốn lần:
Lần thứ nhất: gieo để cầu thủ dịch (gieo ba lượt). Mỗi giáp cử ra một thủ dịch. Từ thời điểm này, thủ dịch được đội khăn xếp, mặc áo thụng đỏ và giữ quan hệ tương thông thần - người. Trong tiệc lễ của đình có hai thủ dịch của hai giáp.
- Lần thứ hai: gieo để cầu mùa màng, gọi là “thanh bông hoa quả”.
- Lần thứ ba: gieo để cầu chăn nuôi phát triển sinh sôi.
- Lần thứ tư: gieo để cầu cho con người khỏe mạnh, bình yên. Sau các lễ cầu, “quân” được nghỉ ngơi, ăn “Cỗ bàn đọi” chờ sang canh.
Ngày mồng Ba, tiến trình tổ chức lễ bắt đầu từ nửa đêm. Chủ lễ vào lễ Thánh, xin phép làm tiệc. Hai thủ dịch vác long đao tiến ra đứng trước hai “ông lễ”, diễn động tác chém vào cổ lợn. Ngay lập tức, tiếng reo hò nổi lên; theo phân công, người của hai giáp xông vào cắt đầu lợn, mổ lợn lấy máu tươi (sinh huyết), thịt sống (sinh nhục) cho giáp mình để hiến lễ. Về cỗ, có hai loại: cỗ thủ dâng lên đình Cả; cỗ vọng tướng dâng lên miếu Tướng. Phần kết thúc của lễ tiệc “thảo tặc khao binh” là tế cờ.
Trước cửa đình, “quân” của giáp nào xếp hàng theo giáp ấy. Giáp Đông đứng về bên đông, giáp Tây đứng về bên tây. Từ trong đình, thủ dịch của hai giáp bưng hương án, che lọng, cầm cờ, khiêng trống, chiêng tiến ra ban thờ ở góc phía bắc của sân đình hướng về phía làng Bồ Lý, tức mô cờ. “Quân” của hai giáp ào ào chạy ra mô cờ, đứng bái vọng về quê hương của bảy vị là làng Bồ Lý, nay là xã Bồ Lý (huyện Tam Đảo).
Sau mục tế cờ, quân hai giáp kéo vào trước cửa đình thực hiện cuộc kéo co, gọi là “sỏ giải”. Đến đây lễ hội kết thúc. Đặc điểm của lễ hội này là phần lễ không rước kiệu, không lễ tế. Vị chủ lễ chỉ “xin chân keo” để chuyển các thứ mục của lễ hội.
Phần cuối cùng của lễ hội - ăn uống, gọi là “tán cỗ”. Tán cỗ là chế biến các đồ lễ sống thành cỗ chín để “thụ lộc”. Công việc này do ban làm cỗ đảm nhiệm. Đồ nấu chín được chia thành các mâm. Mỗi mâm cỗ gồm: một mô xôi nếp, một mô thịt luộc chín, một mô cơm xén thành khuôn. Cỗ ngồi ba người theo từng bàn của hai dõng trong hai giáp Đông và Tây.
Lễ hội làng Phù Liễn
Làng Phù Liễn nay thuộc xã Đồng Tĩnh, huyện Tam Dương, thờ bà Ngọc Kinh, con gái của một vị tướng quân thời các vua Hùng. Năm 40, bà cùng chồng và hai con trai đầu tham gia cuộc khởi nghĩa Mê Linh đánh Tô Định và đều hy sinh năm 43.
Bà Ngọc Kinh được thờ ở miếu sau chùa Phù Liễn nên gọi là miếu Chùa hay miếu Đức Bà. Chồng và con trai cả của bà được thờ ở miếu Thính, hay miếu Đức Ông. Con trai út được thờ ở đình Hức.
Để tưởng niệm bà cùng gia đình, hằng năm, nhân dân làng Phù Liễn tổ chức hai tiệc lớn và lễ hội. Ngày mồng Tám tháng Giêng, mở tiệc tưởng nhớ bà Ngọc Kinh. Trong tiệc phải có trò “đúc tượng” mà dân gian quen gọi là trò “đúc Bụt”. Ngày mồng Chín và mồng Mười tháng Giêng là tiệc dựng miếu, phong sắc, xướng ca khánh hạ. Nội dung chính là tổ chức hát (xướng ca). Trong tiệc có lễ rước kiệu ở các miếu riêng về đình để cộng đồng tế lễ. Lễ rước tổ chức vào buổi đêm, dưới ánh đuốc nên còn gọi là “lễ rước đêm”.
Trò “đúc Bụt” được tổ chức ở sân miếu Đức Bà. Đây là tiệc lệ riêng về bà Ngọc Kinh cùng ba thị nữ là Cao Cả, Cao Nhị và Cao út. Tại đây, cùng lúc diễn hai tích trò: trò “đúc Bụt” ở giữa sân làm trung tâm; trò trình nghề Sĩ - Nông - Công - Cổ ở vòng ngoài theo một đường tròn ước lệ, cùng chuyển động đồng trục (ước lệ) với trò “đúc Bụt” theo ngược chiều kim đồng hồ. Khi đã “đúc Bụt” xong, ông chủ tế vào làm lễ, xin âm - dương, các bà vãi bón trầu cau, bón xôi cho các Bụt. Khi thợ cả “đập lò” nấu đồng (tượng trưng) là kết thúc việc đúc.
Trò diễn tiến hành trong vòng 20 - 30 phút. Sau đó, cuộc “cướp chiếu” diễn ra cho đến khi ai đó cướp được thì đám đông tự giải tán. Các trò chơi dân gian khác như đấu vật, chọi gà... tiếp tục diễn ra đến hết buổi chiều.
Lễ hội làng Lũng Ngoại
Lũng Ngoại (còn gọi Lũng Khê) là một thôn của xã Lũng Hòa, huyện Vĩnh Tường ngày nay. Làng có miếu Ngòi và ba ngôi đình của ba thôn là đình Đông, đình Trung và đình Nam, đều thờ bà Lê Ngọc Trinh, em gái bà Lê Ngọc Thanh (thờ ở đình Hòa Loan), tướng của nghĩa quân Hai Bà Trưng.
Ngày nay, ngôi đình Đông không còn, thôn Đông tiến hành các nghi thức lễ hội tại miếu Ngòi là nơi thờ chính, chung cho cả ba làng. Từ mồng Bốn đến mồng Bảy tháng Giêng có lệ đánh đáo bằng hòn đá ném vào chân cột trong ô đất 4 m, gọi là “hú đáo”. Đó là một nghi thức liên quan đến bà Lê Ngọc Trinh. Tương truyền, khi chiến đấu với một viên tướng nhà Đông Hán, bà đã dùng một sợi dây có buộc đá ở một đầu làm vũ khí. Trong lúc giao tranh, hòn đá văng về làng Lũng Ngoại, từ đó về sau, lệ đánh đáo trở thành một tín ngưỡng, một tục lệ của làng.
Trong bốn ngày, các đình tổ chức lễ riêng nhưng đều theo một nghi thức chung:
- Ngày mồng Bốn vào đám.
- Ngày mồng Năm, mồng Sáu, mồng Bảy: buổi sáng lễ, tế ở đình; buổi chiều, mỗi đình thực hiện hai ván đáo. Hai người thắng cuộc nhận giải thưởng là hai nửa con gà cúng lễ buổi sáng. Trong bốn ngày có tất cả 24 ván đáo, 24 giải, chia nhau 12 con gà lễ. Tiến trình của buổi lễ như sau: sau lễ động thổ sáng mồng Bốn, ban tổ chức lễ của các đình đem cọc ra chôn vào ô đất dành riêng ở trước cửa đình. Cây cọc bằng gỗ cứng (thường là gỗ lim), đường kính khoảng 20 cm, dài 70 cm, đầu cọc bịt đai sắt cho khỏi bị nứt vỡ khi đá ném vào, chôn sâu khoảng 30 cm, còn 40 cm để lộ trên mặt đất. Khoảng cách từ cọc đến chỗ đứng ném khoảng 7 m. Chỗ này trải một chiếc chiếu hoa, người tham gia chơi đáo phải đứng vào trong chiếu để ném đá.Khi ném đá, người chơi phải nhắm cho nó rơi vào ô đất vuông chôn cọc. Hòn đá nào bắn ra ngoài, người chơi phải nhặt trả về đống đá chưa được ném.
Ý nghĩa của trò chơi là ném đá vào đầu giặc. Tất cả trai đinh trong làng từ 18 tuổi trở lên đều được tham gia.
Trò chơi này không hạn định số người tham dự, trừ người ngoài làng. Nhiều người chơi mà mỗi chiều chỉ có hai ván nên buổi nào cũng phải đến lúc mặt trời lặn mới xong cuộc. Kết thúc, người ta chọn lấy hòn đá đã được đánh số gần chân cọc nhất (có khi chỉ là khe lọt sợi chỉ) trao thưởng.
Lễ hội rước tổ nghề làng Hiển Lễ
Bên cạnh nghề nông là chính, từ xưa, nhiều làng xã của Vĩnh Phúc đã có nghề thủ công. Làng Hiển Lễ (nay thuộc xã Cao Minh, thị xã Phúc Yên) có nghề nặn nồi đất, tổ nghề của làng có từ thời Hùng Vương. Tổ nghề là một phụ nữ, tên là Hà Tân, hiệu là Dạ Lãng Thị Lai, còn lăng mộ và thờ ở đình làng Hiển Lễ, được suy tôn làm Thánh Tổ tiên sư, có sắc phong, ngọc phả. Hằng năm, làng Hiển Lễ mở tiệc ngày mồng Ba tháng Giêng ở đình. Ngày 28 tháng Chạp có lễ tế tại lăng.
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TIÊU BIỂU
Miếu
Miếu Đậu
Miếu Đậu nay thuộc làng Đậu, xã Định Trung, thành phố V ĩnh Yên. Căn cứ vào kiểu dáng kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc mà đoán định rằng, miếu được làm vào khoảng cuối thế kỷ XVIII và được trùng tu vào thời Nguyễn, thế kỷ XIX.
Miếu thờ Lỗ Đinh Sơn Thất vị Đại vương, đã có công giúp dân, cứu nước và được các triều vua gia phong. Miếu có bố cục mặt bằng theo kiểu chữ “Công” (I) gồm 3 tòa: tiền tế 5 gian, ống muống 1 gian và hậu cung 5 gian, quy mô khá đồ sộ. Mái miếu lợp ngói vẩy, các góc đao thanh thoát, cong vút, ở bờ dải mái trước còn có hình đắp nổi một đôi nghê chầu. Riêng phần mái ở gian giữa của tòa tiền tế và gian giữa của tòa hậu cung (nơi nối với tòa ống muống) được làm nhô cao hẳn lên theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Tòa tiền tế và hậu cung có kiến trúc 4 hàng chân, thấp nhưng vững chãi; kết cấu khung gỗ về cơ bản thuộc thời Nguyễn (khoảng giữa thế kỷ XIX) với các bộ vì theo kiểu chồng rường hoặc chồng rường giá chiêng. Tòa ống muống về mặt bằng chỉ có một gian nhưng do kết cấu 2 tầng mái nên có 4 bộ vì: 2 vì ngoài liên kết với tiền tế theo kiểu bán giá chiêng, 2 vì trong liên kết với hậu cung theo kiểu ván mê. Gian giữa hậu cung được nâng sàn làm khám thờ.
Khám có cấu tạo 2 cấp 3 lớp cửa, sàn lát gỗ, trần và xung quanh bưng ván... Ba tòa kiến trúc của miếu Đậu đều được làm bằng các loại gỗ tốt, các kết cấu gỗ được gia công và lắp ráp với kỹ thuật mộng, mẹo chuẩn mực, chứng tỏ sự khéo léo và sáng tạo của các nghệ nhân dân gian thời xưa.
Do được trùng tu nhiều lần nên những mảng chạm khắc ở miếu Đậu không còn nhiều. Đáng lưu ý là một số bức chạm trang trí cho khu vực xung quanh cửa khám thờ. Bức diềm trên cửa khám được đục thủng hình lưỡng long chầu nhật (rồng chầu mặt trời). Hai hình rồng thân uốn khúc, đuôi xoắn tròn, chân 4 móng sắc quắp vào cành mác. Đầu rồng chạm nổi bật hẳn lên trên, miệng ngậm ngọc, chầu vào mặt trời được chạm lồi mặt gương, tỏa vầng sáng ra xung quanh. Hai bên cửa cũng sử dụng kỹ thuật đục thủng hình rồng uốn. Riêng diềm dưới tô điểm cho xà ngang đỡ khám phía dưới lại có 2 phần trang trí khác nhau. Xà chính ăn mộng với cột khám được soi bào và vẽ hoa văn. Giáp nối với xà là một băng diềm chạm nổi, hai đầu có cấu tạo kiểu chân quỳ chạm hình đầu rồng, chính giữa chạm hình hổ phù càm chữ “Thọ” - một biểu tượng của tín ngưỡng cầu mùa của cư dân nông nghiệp. Hai bên hổ phù là hai hình rồng chạm ở tư thế nhìn nghiêng, thân uốn khúc mềm mại, miệng há rộng ngậm ngọc, hướng về phía hổ phù.
Bên cạnh đó, những mảng chạm trên thân án gian cũng là những tác phẩm nghệ thuật hết sức tiêu biểu. Mặt trước án gian được trang trí cầu kỳ. Bốn băng hoa văn trên cùng thì chỉ chạm hình cánh sen dẹo, lá đề và hoa chanh. Phía dưới chạm hình hổ phù ở hai góc ngoài; ở giữa trở lại với đề tài quen thuộc là rồng chầu mặt trời được cách điệu đôi chút. Riêng băng dưới cùng gồm có 5 ô chạm: mỗi bên chân án gian có 2 ô hình chữ nhật, ô bên trái được đục thủng hình mai hóa long, gốc mai chạm ước lệ như đầu rồng, thân vươn lên với nhiều cành hoa, lá; ô bên phải chạm nổi hình trúc hóa long, gốc trúc cũng là hình đầu rồng cách điệu, thân là thân trúc khúc khuỷu nhiều đốt. Hai ô nữa cũng hình chữ nhật, trang trí cho phần chân án gian bằng hình dải lụa dài mềm mại buộc cuốn thư. Ô trung tâm ở mặt trước án gian là ô chạm lớn nhất, được đục thủng, thể hiện hình rồng chầu chữ “Thọ” . Hình chữ “Thọ” vuông ở giữa, chầu hai bên là hai hình rồng lớn uốn khúc, đuôi xoắn tròn, chân 3 móng sắc bám vào cành mác, dáng vẻ dữ tợn, bờm tóc tỏa về phía sau, 2 sợi râu vươn về phía trước, chờm lên chữ “Thọ”... Đây là một chiếc án gian được tạo tác vào thời Nguyễn, với kỹ nghệ đục chạm hết sức tinh tế và đặc sắc, đủ cho thấy nghệ thuật chạm khắc điêu luyện của các nghệ nhân dân gian. Ngày nay, vào mồng Ba tháng Giêng hằng năm, làng vẫn tổ chức lễ hội tại miếu Đậu.
Miếu Tam Thánh
Miếu Tam Thánh còn gọi là miếu Ba Vị hoặc miếu Dốc Dinh, thuộc xóm Xuôi Ngành, làng Nội Phật, xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên. Miếu thờ bà Trần Ả Dưỡng và hai em trai là Bạch Thiên Sách và Bình Sơn, có công giúp Hai Bà Trưng đánh giặc Hán. Miếu được xây dựng vào thời Nguyễn, đời Vua Gia Long (1813). Đến nay, miếu vẫn giữ được nguyên trạng, chưa có sự trùng tu, thay đổi nào đáng kể.
Hai góc mái cong vút, gắn hai con rồng bằng đất nung thành hai đầu đao uốn vào trong. Đầu rồng chạm khắc rất tinh tế, sinh động, đỏ và nhẵn. Mái lợp ngói kiểu vẩy rồng.
Hai đầu đốc xây gạch bìa 30 x 18 cm. Nóc tường hồi xây một hàng gạch lá chìa ra 5 cm để che mưa và làm bệ tì cho dầm ngang chạy suốt nóc vẩy và 4 vì kèo. Mái vẩy rộng 1,5 m; dài 7 m giữ khô ráo cho tất cả hệ thống tường hồi, dầm, yếm và kèo. Trên mái vẩy là đầu hồi, cấu tạo hình tam giác cân áp sát vào nóc miếu, được bịt kín bằng 4 tấm gỗ bắt mép vào nhau, tụt sâu vào 40 cm để nóc phủ lên che chắn nước mưa. Tường hậu hình chuôi vồ, chia 9,5 m chiều ngang thành ba phần đều nhau. Phần lồi ra phía sau 2,5 m tạo thành hậu cung, đặt khám thờ bên trong.
Toàn miếu có 16 cột lim, đường kính 40 cm. Các cột giữa đều phủ sơn ta rồi sơn son thếp vàng. Các cột cạnh để mộc, đầu kèo chìa ra hiên, hàng cột xung quanh một nửa lộ ra hiên, một nửa trong miếu. Nhìn chung, với hệ thống cột gỗ lim, xà, kèo và hệ thống đai, giằng cùng với tường gạch cổ đã làm cho miếu Tam Thánh trở thành một công trình kiến trúc bền vững, còn giữ gần như nguyên vẹn đến tận ngày nay.
Đền, phủ
Đền Bạch Trì
Đền tọa lạc trên quả đồi Rừng, thuộc thị trấn Hợp Hòa, huyện Tam Dương với diện tích khoảng 3 ha.Đền Bạch Trì có kiến trúc ba gian thờ dọc, hai gian ngoài là tiền tế, gian trong cùng bố trí thượng cung bởi sàn ván gỗ nâng cao cách nền 1,6 m. Diện tích mặt bằng kiến trúc đền là 76 m2. Kết cấu vì kèo theo dạng thức “chồng rường giá chiêng”, gồm năm bộ vì, bốn hàng chân (hai mươi cột gỗ lim) kê trên đá tảng, tạo thế vững chãi cho ngôi đền.
Đền Bạch Trì còn lưu giữ nhiều mảng chạm khắc gỗ truyền thống với trình độ kỹ thuật tinh xảo, đề tài phong phú, làm khuôn mẫu cho lối trang trí kiến trúc thờ tự cộng đồng của vùng quê trung du Bắc bộ.
Đền Đuông
Đền Đuông ở xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường. Đền thờ “Đông Hải Long Vương”, phu nhân và con gái. Đông Hải Long Vương là con thứ 25 của Lạc Long Quân và Âu Cơ, có công dạy dân vùng Bồ Sao trị thủy sông Hồng, chống lũ lụt, bảo vệ mùa màng và đời sống nhân dân.
Đền Đuông không chỉ là một di tích lịch sử có giá trị mà còn là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Đa phần di tích được kiến thiết vào thời Nguyễn, thế kỷ XIX.
Đền được xây dựng trên một khu gò cao, xung quanh có tường bao bọc. Từ ngoài vào đền phải qua cổng chính và 2 cổng phụ xây bằng gạch. Tiếp theo là sân đền, chiều dài 30 m, chiều rộng 10 m. Hai bên tả mạc, hữu mạc đã đổ nát. Qua sân đến nhà tiền tế, lầu Trống rồi đến đại điện.
Đền chính kiến trúc kiểu chữ “Công” (I). Đó là những ngôi nhà 3 gian được nối với nhau bằng một cầu nối. Toàn bộ kiến trúc có 48 cột, gồm 4 hàng, tất cả đều làm bằng gỗ tứ thiết, đẽo tròn, bào nhẵn, chân hơi cúp, bung nở rồi thu dần lên phía đầu cột. Cả 8 cột đều được đặt lên những tảng đá xanh vuông vức, to dày, bảo đảm khả năng chịu đựng bộ mái nặng nề, ngay cả khi có nước lụt tràn vào nền nhà. Các vì kèo làm theo kiểu thức kẻ chuyền trên thượng lương chồng bồn. Toàn bộ kiến trúc gợi nhớ đến đền Phú Đa cũng xây dựng từ đời Lê, cũng sử dụng vật liệu đá xanh, gỗ tứ thiết bào tròn đóng bén, không chạm khắc cầu kỳ.
Nét độc đáo của đền Đuông là lầu Trống nối giữa tiền tế với đền chính. Lầu Trống, gọi theo tên chữ là Phương Đình, được cấu trúc hình lầu hai mái, theo kiểu thức chồng diêm, 4 mặt nền nhà bó vỉa bằng đá xanh. Lầu trống có 2 hàng cột gỗ, mỗi hàng 4 chiếc, cột ngoài cao 3,50 m, đường kính 0,30 m; cột trong cao 4,50 m, đường kính 0,35 m.
Hai tầng mái lợp ngói mũi hài, mái xòe rộng, uốn cong mềm mại ở góc, tạo nên làn sóng gợn lô nhô của mũi ngói. Tám góc mái bổng thanh thoát. Các đầu đao được gắn đắp hình rồng và điểm những hình lá lật rất cầu kỳ. Bờ nóc và bờ dải được đắp vữa hình hộp, có điểm xuyết gân lá như hình rồng. Lầu của Phương Đình được trang trí những ô cửa hình con tiện tinh xảo ở xung quanh. Bộ khung được kết cấu xà ngang, xà dọc mộng khớp sít sao, tạo nên một công trình kiến trúc bề thế, chắc chắn, khang trang, có quy mô đứng hàng đầu các kiến trúc trong vùng.
Đi đôi với kiến trúc, đền Đuông còn lưu giữ được nhiều di vật mang dấu ấn cổ kính. Đáng chú ý có 11 pho tượng Đông Hải Long Vương và phu nhân, tượng võ sĩ, tượng tả hữu văn võ, đắp bằng đất sét luyện với giấy bản, ngoài sơn son thếp vàng. Ngoài ra còn có 2 con sư tử bằng gỗ để mộc, chạm khắc tỉ mỉ, tả thực với bờm râu sắc nét, dữ dội; một đỉnh đồng nặng 15 kg và 4 cây đèn đồng cao to, màu đen bóng; một cuốn ngọc phả và 14 đạo sắc phong từ đời Lê Cảnh Hưng năm thứ 5 (1745) đến đời Nguyễn Khải Định năm thứ 9 (1925).
Đền thờ Trần Nguyên Hãn
Đền thờ Trần Nguyên Hãn được lập trên chính nền nhà cũ của gia đình ông, tại một gò cao phía nam xóm Đa Cai, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch. Đền có kiến trúc bộ vì kiểu chồng rường giá chiêng và thượng rường hạ kẻ, nguyên liệu bằng gỗ tốt nên vẫn giữ được những giá trị văn hóa đặc trưng của loại hình kiến trúc cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn. Các trang trí mỹ thuật trên đồ thờ tự, kỹ thuật sơn thếp trên hoành phi, câu đối, long ngai bài vị... đều là những tác phẩm điển hình về nghệ thuật điêu khắc, tạo hình dân gian truyền thống. Trong đền còn một số cổ vật: 2 hoành phi, 4 câu đối, 2 sập thờ, 1 ngai thờ, 1 án thư, 2 con hạc gỗ, 2 cây đèn gỗ, 1 mâm gỗ, 13 đạo sắc phong từ đời Lê Dụ Tông (Vĩnh Thịnh, 1705 - 1719) đến đời Nguyễn Bảo Đại (1926 - 1945), và 1 bản thần tích.
Các di tích liên quan: ao Tó, hòn đá mài gươm, rừng Thần, bến Đông Hồ, miếu Đông Hồ cùng góp phần làm tăng thêm giá trị, ý nghĩa lịch sử cho ngôi đền.
Đền thờ Hai Bà Trưng
Đền thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh (nay thuộc Hà Nội). Tương truyền, dưới đời Vua Lý Anh Tông (1150 - 1175), trời hạn hán. Nhờ Hai Bà báo mộng, nhà vua làm lễ cầu đảo được mưa cho dân cày cấy, sau đó vua truyền lập đền thờ Hai Bà tại cố hương. Ban đầu, đền thờ hướng về phía tây nam (tọa Cấn hướng Khôn). Hiện đền hướng về phía nam, cho đến nay đã qua năm lần trùng tu xây dựng.
Về cơ bản, kiến trúc đền còn lại đến nay thuộc thời Nguyễn, kiểu “nội Đinh , ngoại Nhất ”, trong có trung điện, hậu cung, ngoài có tiền tế, ngoài cùng có tam quan trong một khuôn viên rộng tới 4 - 5 ha. Các tác phẩm điêu khắc đẹp của đền được thể hiện qua đôi rồng đá ở thềm tòa trung điện, các bức chạm gỗ đặc sắc ở Cửa võng, Khám thờ.
Đền thờ Đỗ Khắc Chung
Ngôi đền thờ nhà giáo Đỗ Khắc Chung, còn gọi là miếu cụ Đỗ, ở làng Quan Tử, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, được xây dựng từ khoảng giữa thế kỷ XIV, trên nền lớp học cũ của nhà giáo Đỗ Khắc Chung. Đền đã được sửa chữa, trùng tu hai lần (thế kỷ XVIII và năm 1929).
Đền thờ hiện nay có kiến trúc mặt bằng kiểu “nội Đinh, ngoại Nhất ” với tổng diện tích xây dựng tới 600 m2. Kiến trúc đền không lớn nhưng chắc khỏe, có nhiều đề tài chạm khắc mỹ thuật dân gian trên chất liệu gỗ truyền thống mang dấu ấn thời Hậu Lê (thế kỷ XVIII).
Đền còn lưu giữ nhiều tư liệu, hiện vật quý. Đặc biệt có bản phả lục về sự tích Đỗ Khắc Chung - công thần nhà Trần do Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Lê Tung soạn năm Hồng Phúc thứ nhất (1572).
Đền thờ Đỗ Khắc Chung cùng với đền thờ Trần Nguyên Hãn, chùa Vĩnh Phúc, đình Bác Cổ là cụm di tích lịch sử văn hóa đặc sắc của xã Sơn Đông cũng như của huyện Lập Thạch.
Đền Phú Đa
Đền Phú Đa ở xóm Giếng, xã Phú Đa, huyện Vĩnh Tường, thờ Lãng Phương hầu Nguyễn Danh Thường. Đền được làm thời Vua Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786). Từ khi được xây dựng đến nay, đền chưa phải trùng tu lần nào.
Đền Phú Đa gồm ba tòa kiến trúc (cổng đền, đại bái, từ đường) theo kiểu chữ Tam” Do đền nằm trong vùng chiêm trũng, hằng năm đều bị ngập lụt nên các nhà xây dựng đã gia cố nền móng và kiến trúc đền hết sức vững chắc. Toàn bộ vật liệu dựng đền đều bằng gỗ lim, được chọn lựa cẩn thận cả về kích thước và độ già của gỗ.
Về mỹ thuật trang trí tạo hình, đây là ngôi đền có nhiều di vật đá nhất trong số các kiến trúc cổ hiện còn ở Vĩnh Phúc. Chỉ tính những di vật được đục, chạm thành tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh thì đền Phú Đa đã có tới 48 tác phẩm. Chạm khắc đá ở đền Phú Đa đã phản ánh những thành công nổi bật, thể hiện trình độ cao về nghệ thuật chạm khắc, trang trí dân gian trên đá thời Lê Mạt.
Đền Bà
Đền Bà hay còn gọi là đền Vị Thanh, được xây dựng trên một khu đất ven đầm Vạc, nay thuộc xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên.
Đền được xây dựng vào thời Nguyễn, khoảng cuối thế kỷ XIX, gồm ba tòa kiến trúc bố cục theo kiểu chữ “Công” : năm gian tiền tế, hai mái bít đốc có cửa gỗ bức bàn, một gian ống muống và ba gian hậu cung, có tạo gác lửng làm khám thờ thần. Ở đền Bà, những mảng chạm khắc tuy không nhiều nhưng đường nét chạm khắc lại khá sắc nét, điêu luyện. Đền còn có bốn bộ long ngai và các bức hoành phi, câu đối chữ Hán, là những cổ vật quý, được gia cố công phu, trang trí cầu kỳ. Đặc biệt, đền Bà còn lưu giữ được những giá trị văn hóa phi vật thể tiêu biểu, trong đó độc đáo nhất là lễ hội tế trâu diễn ra vào các ngày 13, 14, 15 tháng Mười hằng năm.
Đền Thính
Đền thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, thờ Đức Thánh Tản Viên nên gọi là đền Thánh, đọc chệch đi là đền Thính, ngoài ra còn gọi là đền Bắc Cung. Năm Thành Thái thứ 14 (1902) triều Nguyễn, quan huyện Yên Lạc là Lưu Đình Dương vời nhà sư Tăng Ất đứng ra xây dựng hậu cung của ngôi đền (cửu trùng); năm Duy Tân thứ 5 (1911), dựng thêm lầu Chuông và lầu Trống; đến năm Khải Định thứ 2 (1917), mở rộng đền về phía trước thêm bảy gian tiền tế và năm Khải Định thứ 6 (1921), xây thêm cổng, lát sân, dựng nhà hành lang...
Như vậy, trong khoảng 20 năm, việc xây dựng đền Thính mới hoàn thiện như cấu trúc hiện nay. Trong khoảng diện tích 2.000 m2, khu đền có các công trình kiến trúc cơ bản gồm tiền tế bảy gian, hậu cung bảy gian nối nhau theo kiểu chữ “Đinh” .Đền Thính còn là nơi lưu giữ nhiều tác phẩm điêu khắc độc đáo, đặc trưng cho nghệ thuật chạm gỗ dân gian nửa đầu thế kỷ XIX.
Phủ thờ quan Thượng Láng Nguyễn Duy Thì
Phủ thờ tại thôn Yên Lan, xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, là nơi thờ danh nhân Nguyễn Duy Thì (1571 - 1652), người đã có nhiều đóng góp quan trọng cho đất nước đầu thời Lê - Trịnh. Phủ được xây dựng thời Lê.
Phủ có kiến trúc không lớn, hình thức kết cấu đơn giản, gồm hai tòa nhà năm gian song song hình chữ “Nhị” , mang rõ dấu ấn của loại hình kiến trúc thế kỷ XVII ở vùng nông thôn trung du Bắc bộ.
Hiện nay, phủ còn lưu giữ nhiều hiện vật, tư liệu quý, gồm: 1 ngai thờ, 1 án gian, 1 mâm bồng, 13 đài nước, 1 bức đại tự, 4 đôi câu đối, 1 cuốn gia phả soạn năm 1750, 21 đạo sắc phong thời Lê.
Hằng năm, vào ngày 11 tháng 9, kỷ niệm ngày mất của danh nhân Nguyễn Duy Thì, nhân dân địa phương tập trung về đây, tổ chức nhiều hoạt động rất sôi nổi.
Đình
Đình Thổ Tang
Đình thuộc xã Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, được xây dựng từ thế kỷ XVII, theo kiểu chữ “Đinh” , đến nay còn bảo lưu được tương đối nguyên vẹn kiến trúc thời Hậu Lê. Đình Thổ Tang thờ danh tướng Lân Hổ Đô thống Đại vương, có công đánh giặc Nguyên - Mông thế kỷ XIII.
Đình Thổ Tang được xây dựng với quy mô đồ sộ, gồm hai tòa kiến trúc bố cục theo hình chữ “Đinh”. Hiện trong đình còn 21 bức chạm khắc gỗ hết sức tinh tế, phản ánh đời sống lao động - sinh hoạt của nhân dân ta thời xưa, 1 sập chân quỳ, 1 án gian, 1 kiệu văn, 3 mâm ấu, 4 ống hoa, 7 đài rượu, 1 bức hoành phi, 1 chuông, 1 khánh của chùa Bà Nghệ, 1 kiệu bát cống thời Lê.
Đình Thổ Tang là một trong những ngôi đình đạt đến đỉnh cao về mỹ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian thời Hậu Lê, cũng là di tích được xếp hạng quốc gia sớm nhất ở Vĩnh Phúc.
Đình Hương Canh
Đình được xây dựng thời Hậu Lê (thế kỷ XVII). Đây là ngôi đình có kiến trúc đồ sộ, chạm trổ tinh vi, điêu luyện.Xưa kia, đình Hương Canh có ba tòa kiến trúc bố cục theo kiểu chữ “Vương” . Năm 1964, trong khi tu sửa, tòa cuối cùng của đình đã bị tháo dỡ, hiện nay còn tòa tiền tế và đại đình. Tiền tế đình Hương Canh gồm ba gian, mái được làm theo kiểu hai tầng tám mái. Tòa đại đình gồm năm gian hai dĩ, dài 26 m, rộng 13,5 m, kiểu bốn mái.Cụm đình Hương Canh không làm kiểu
“chồng bồn tứ trụ” như một số đình khác mà kết cấu bộ vì đình Hương Canh theo kiểu “cột đội cánh sẻ” (kiểu mộng thắt) rất khỏe và giữ được nóc đình vững bền.
Đình Ngọc Canh
Cách đình Hương Canh khoảng 200 m là đình Ngọc Canh, được khởi dựng vào thế kỷ XVII, với kiểu kiến trúc tương tự đình Hương Canh, rất đồ sộ với các cột lớn, kết cấu vững chãi. Hiện đình còn nguyên ba tòa kiến trúc bố cục như hình chữ “Vương” .
Về nghệ thuật chạm khắc, đình Ngọc Canh cũng có những bức chạm khắc các cảnh giống đình Hương Canh, như: “đấu vật”, “bơi chải”, “đi săn về” hay những hình rồng phượng, con giống... Tuy nhiên, nội dung và nghệ thuật chạm trổ ở đây có những điểm khác biệt.
Đình Tiên Canh
Kết cấu, kiểu thức kiến trúc, niên đại xây dựng đình Tiên Canh giống đình Hương Canh và Ngọc Canh, nhưng đình Tiên Canh có diện tích lớn hơn. Tiền tế năm gian dài 23 m, rộng 10 m; đại đình năm gian hai dĩ, dài 29,7 m, rộng 14 m; hậu cung năm gian hai dĩ, dài 16 m, rộng 7 m.
Trên bộ khung kiến trúc của đình, người ta chạm khắc, trang trí với kĩ thuật điêu luyện, nội dung phong phú, tinh tế. Có thể nói, chạm trổ ở cửa võng đình TiênCanh là kiệt tác độc đáo về chạm khắc gỗ cổ dân gian ở Vĩnh Phúc cuối thế kỷ XVIII. Với đề tài chủ đạo - hình rồng, chạm khắc ở đình Tiên Canh đã phần nào phản ánh nội dung tư tưởng đa dạng của xã hội Việt Nam đương thời.
Đình Hương Canh, Ngọc Canh, Tiên Canh, mỗi đình thuộc một làng, cùng thờ chung sáu vị Thành hoàng: Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập - con trai cả của Ngô Quyền, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền, Linh Quang Thái hậu Dương Thị Như Ngọc - vợ Ngô Quyền, A Lữ Nương nương Dương Phương Lan - vợ thứ Ngô Quyền, Thị Tùng Phu nhân Phạm Thị Uy Duyên - vợ Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, Đông Ngạc đại thần Đỗ Cảnh Thạc - vừa là tướng vừa là cháu ngoại của Ngô Quyền.
Cụm đình Hương Canh tạo thành cụm di tích dày đặc về mật độ, độc đáo về mỹ thuật kiến trúc gỗ dân gian, thuộc vào loại quý hiếm của tỉnh Vĩnh Phúc.
Đình Bạch Trữ
Đây là một trong những ngôi đình lớn và cổ, kiến trúc độc đáo, với những tác phẩm điêu khắc gỗ dân gian hết sức đặc sắc, tiêu biểu cho kiến trúc của đình làng cổ truyền Việt Nam thời Lê Trung Hưng.
Đình thuộc thôn Bạch Trữ, xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh (nay thuộc Hà Nội). Đình Bạch Trữ gồm ba tòa: tiền tế, đại đình, hậu cung được nối với các tòa ống muống. Về bố cục, đình chỉ có dạng chữ “Nhất” với tòa đại đình ở giữa; về sau người ta mới dựng tiếp tòa tiền tế và tiếp sau là hậu cung; cả ba tòa được nối với nhau bởi hai ống muống để tạo nên hình thức mái theo kiểu chữ “Vương, nền chữ “Tam” .
Đình Bạch Trữ thờ nhị vị tiên linh là Công chúa Mỵ Nương thời Vua Hùng và Cống Sơn thời Hai Bà Trưng. Nội dung thờ tự phong phú, kết hợp với kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc tinh vi, từ đó, có thể khẳng định rằng, đình Bạch Trữ là một trong những ngôi đình có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hệ thống di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Vĩnh Phúc. Đây còn là nơi thờ Thành hoàng làng và nơi tổ chức các sinh hoạt văn hóa của nhân dân trong vùng.
Đình Hiển Lễ
Đình Hiển Lễ thuộc xã Cao Minh, thị xã Phúc Yên, tọa lạc ở một vị trí đẹp, rộng và bằng phẳng ven làng. Nằm ở vị trí giao thông rất thuận lợi, nên đình Hiển Lễ và làng gốm Hiển Lễ có tiềm năng để trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn. Lúc mới khởi dựng, đình có quy mô kiến trúc rất đồ sộ với các tòa được bố trí theo hình chữ “Chủ”. Tuy nhiên, do những biến cố lịch sử và tác động của điều kiện tự nhiên, kiến trúc cổ của đình đến nay chỉ còn tòa ống muống được cải tạo thành hậu cung ba gian, với năm bộ vì theo kiểu giá chiêng chồng rường.Trên những cấu kiện kiến trúc gỗ của đình Hiển Lễ được trang trí các hình hổ phù, rồng uốn, phượng cầm thư... hết sức tinh xảo. Ngoài ra, ba bức Trần đình Hiển Lễcũng là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc.
Hiện nay, đình Hiển Lễ còn lưu giữ được nhiều cổ vật thuộc các loại chất liệu: gỗ, vải, đồng, giấy. Đặc biệt có sáu bản sắc phong và hai cuốn ngọc phả chữ Hán, là tài liệu thuộc dạng cổ vật độc bản, rất quý.
Đình Thứa Thượng Đình của làng Thứa Thượng thuộc xã Duy Phiên, huyện Tam Dương, cùng với đình Thứa Hạ, đình Phú Vinh (đều thuộc xã Duy Phiên) là nơi thờ Tam vị đại vương: Đệ nhất Hùng Liệt, Đệ nhị Hùng Dũng, Đệ tam Hùng Đô. ương truyền, đây là ba vị anh hùng phò vua, giúp nước, được nhân dân nhớ ơn đức, lập miếu thờ phụng.
Trong khuôn viên rộng 10.700 m2 , trên một quả gò thấp, đình Thứa Thượng gồm hai tòa kiến trúc: đại đình ba gian, hai dĩ nối với hậu cung hai gian, tạo thành hình chữ “Đinh” . Diện tích toàn đình khoảng 198 m2.
Đình được xây dựng vào năm Lê Cảnh Hưng thứ 40 (1779), nay đã qua hai lần trùng tu lớn (1936 và 2002). Đình mang đặc trưng của lối kiến trúc thời Hậu Lê với dạng thức bộ vì kiểu “chồng rường” và “thượng rường hạ bẩy”. Một điểm đặc biệt đáng chú ý của ngôi đình là cách biệt hẳn khu dân cư, thế đứng thuộc thế âm, phía trước là một gò cao án toàn mặt tiền, phía sau là khu đồng trũng - dòng chảy xưa của sông Phan (nay đã chuyển dòng). Đình Thứa Thượng với bốt Thứa, giếng Ngọc, núi Vua, ao Bạch... hình thành nên một hệ thống di tích quý, là điều kiện thuận lợi cho những dự án du lịch tín ngưỡng - lịch sử và sinh thái đặc thù của miền trung du Vĩnh Phúc.
Chùa
Chùa Báo Ân
Chùa Báo Ân thuộc phường Trưng Nhị, thị xã Phúc Yên, được xây dựng vào đời vua Lý Cao Tông (1176 - 1210). Đây là một trong những ngôi chùa thời Lý còn lại đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, xưa gọi là rừng Cấm, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa Báo Ân được xây dựng và trùng tu lần thứ nhất vào thế kỷ XII.
Đến thế kỷ XIV, đời Vua Trần Anh Tông, chùa được Công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của để tu bổ lần thứ hai. Đến nay, các tòa kiến trúc cổ của chùa như tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà Tổ, điện thờ Công chúa Hưng Nương và điện thờ Mẫu đã bị dân làng dỡ bỏ do xuống cấp. Hệ thống chùa được xây dựng lại với quy mô lớn hơn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi.
Hiện tại, chùa Báo Ân còn một số di vật cổ rất có giá trị. Tượng Phật có ba pho Tam Thế, một pho A Di Đà, một pho Di Lặc, một pho Thích Ca sơ sinh, một pho Đức Ông và một pho Thánh Tăng. Tượng thần có một pho Công chúa Hưng Nương ở tư thế tọa thiền trong cỗ khám được trang trí hết sức tinh tế. Nhìn chung, tượng chùa Báo Ân không lớn nhưng rất đẹp về tạo dáng và thành công về mỹ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian, về đặc tả theo tích chuyện của từng nhân vật trong hệ thống tượng chùa thế kỷ XVIII.
Đặc biệt, chùa Báo Ân có một bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (Bài ký bia chùa Báo Ân). Bia khắc tháng 12 năm Trị Bình Long Ứng thứ 5 (1209). Đây là tấm bia thời Lý còn lại duy nhất ở tỉnh Vĩnh Phúc. Bia cao 1,40 m, rộng 0,85 m, dày 0,14 m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu thò dài, chân 4 móng choãi vẻ nặng nhọc. Bia khắc cả hai mặt với 1.498 chữ Hán, nét chữ sắc sảo theo lối chữ chân thời Lý rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích.
Bài ký đã miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XIII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, đồng thời ca ngợi công đức bố thí làm chùa của Thái tử - con trưởng Vua Lý Cao Tông và võ tướng Nguyễn Công trong cuộc trùng tu, sửa chữa chùa năm đó. Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà Phật, mô tả cảnh đẹp của chùa sau khi tu sửa và công đức của những người theo Phật pháp ở đây. Nội dung tấm bia này đã được hai tác giả Ngô Thế Long - Băng Thanh dịch và giới thiệu trong Tuyển tập thơ văn Lý - Trần.
Với giá trị về mỹ thuật trang trí, điêu khắc trên đá thế kỷ XIII và nội dung văn tự chữ Hán như kể trên, bia đá chùa Báo Ân là một báu vật quý hiếm trong kho tàng di sản văn hóa của dân tộc ta nói chung và của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Chùa Ngũ Phúc
Chùa Ngũ Phúc còn gọi là chùa của 5 làng Tích Sơn cổ (gồm làng Tiếc, làng Hạ, làng Khâu, làng Đậu, làng Sậu). Chùa được xây dựng từ cuối thời Lý. Hiện nay chùa thuộc địa bàn phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên. Đây là ngôi chùa duy nhất được xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia tại thành phố Vĩnh Yên.
Năm 1890, thực dân Pháp chiếm đóng chùa, lấy đất chùa xây dựng tòa nhà Quan Chánh sứ và thành lập tỉnh lỵ Vĩnh Yên nên chùa phải di chuyển về vị trí hiện nay. Lúc đầu, chùa được xây dựng theo lối kiến trúc “nội ngoại Quốc”. Chùa Ngũ Phúc ngày nay tọa lạc trên một khu đất có hình thế đẹp, cao ráo, bằng phẳng thuộc trung tâm thành phố Vĩnh Yên.
Chùa quay theo hướng đông nam, gần quốc lộ số 2, xung quanh chùa có tường bao. Từ cổng chính đi qua một khoảng sân rộng, đến giữa sân là nơi đặt cây hương đá, đi tiếp vào trong chùa là nhà bái đường. Nhà bái đường gồm 5 gian 2 dĩ, gian giữa dài và 2 gian bên thu hẹp hơn. Nối tiếp nhà bái đường là chính điện. Bức đại tự “Ngũ Phúc Tự” được treo phía trước thượng điện.
Bên trái tiếp giáp với chùa chính là nhà Tổ, cũng quay theo hướng đông nam. Trong hậu cung hiện còn thờ nhiều tượng Phật, được bày nhiều lớp, cao dần về phía trong thượng điện. Ngoài ra chùa còn lưu giữ môt số di vật bằng đồng, bằng đá có giá trị lịch sử.
Trong thời kỳ kháng chiến, chùa Ngũ Phúc còn là nơi cất giấu vũ khí, nuôi giấu cán bộ, đồng thời là nơi hội họp của các cơ sở cách mạng.
Chùa Hà Tiên
Chùa Hà Tiên (Vĩnh Yên) tọa lạc trên một quả đồi có thế “long hàm ngọc” (rồng ngậm ngọc), diện tích hơn 6,2 ha với một địa thế đẹp và không gian rộng rãi, thoáng mát. Chùa Hà Tiên đã có từ khoảng những năm hưng thịnh của Phật pháp dưới triều Lý, vừa là nơi thờ Phật, vừa là Phật học đường - nơi truyền bá tri thức giáo pháp cho nhiều thế hệ tăng ni, cư sĩ qua hàng trăm năm. Khuôn viên chùa cổ hiện còn năm cây bảo tháp (loại ba tầng) cùng cây si cổ thụ.
Chùa Hà Tiên có một không gian văn hóa đặc trưng của Phật giáo Đại Thừa. Cảnh chùa đang dần được xây dựng lại với hàng chục hạng mục công trình. Nơi đây còn có khuôn viên dành để mô phỏng kiến trúc những ngôi chùa nổi tiếng trên thế giới và vùng Đông Nam Á. Sự kết hợp hài hòa giữa không gian đẹp với những kiến trúc riêng biệt của chùa Hà Tiên đã tạo nên một tổng thể kiến trúc hoành tráng, vừa truyền thống vừa hiện đại.
Chùa Chi Đông
Chùa có tên chữ là Phúc Long Tự, thuộc thôn Chi Đông, xã Quang Minh, huyện Mê Linh (nay thuộc Hà Nội). Năm 1993, chùa cùng với đền Chi Đông (nằm liền kề chùa) đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là cụm di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Chùa có giá trị tiêu biểu về kiến trúc cũng như nghệ thuật điêu khắc gỗ, tạc tượng và còn lưu giữ được nhiều loại di vật, cổ vật quý từ thời Lê, Nguyễn.
Chùa được dựng vào thời Hậu Lê, niên hiệu Chính Hòa thứ 14 (1693), gồm tam quan hai tầng tám mái, chùa chính, nhà Tổ và hành lang tả, hữu. Hiện chùa Chi Đông còn chùa chính và nhà Tổ với quy mô khá bề thế, đồ sộ. Chùa chính gồm tòa tiền đường chín gian nối với thượng điện năm gian theo kiểu chữ “Đinh”
Chùa Chi Đông có nhiều bức chạm khắc với hình thức sinh động, nội dung phong phú, đạt trình độ thẩm mỹ cao của nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian. Ngoài ra, chùa Chi Đông còn có 13 pho tượng làm bằng gỗ và đất luyện, được trang trí hoa văn tinh tế kết hợp với kỹ thuật sơn thếp lành nghề.
Chùa Động Lâm
Chùa Động Lâm còn gọi là chùa Hạ, thuộc xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương. Đây là ngôi chùa tiêu biểu cho tín ngưỡng tôn giáo kết hợp với tín ngưỡng bản địa và triết lý phương Đông. Chùa được xây dựng ở giữa khu dân cư trù phú, phía trước có hồ nước rộng. Sân chùa có một bia đá được tạo vào năm đầu niên hiệu Đức Long (1629), diềm bia chạm khắc những hình hoa văn mang đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ XVII. Điều đó có thể cho phép chúng ta đoán định rằng, chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII, đã trùng tu lớn vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện nay gồm hai tòa: bái đường và thượng điện, kiến trúc được bố cục theo kiểu chữ “Đinh”.
Chùa có hệ thống tượng đẹp và khá phong phú, bao gồm cả tượng Phật, tượng Thần. Tiêu biểu nhất là bức tượng gỗ Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt cao 2,7 m, hiện đang được trưng bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (pho Quan Âm Nam Hải hiện ở chùa là bản sao của bức tượng này).
Chùa Hoa Dương
Chùa Hoa Dương thuộc thôn Thượng, xã Tuân Chính, huyện Vĩnh Tường.
Chùa được xây dựng vào thời Hậu Lê, năm đầu niên hiệu Chính Hòa đời Vua Lê Hy Tông (1680). Ngày nay, chùa Hoa Dương vẫn là một di tích có kiến trúc khá đồ sộ, nguy nga, mặt bằng hình chữ “Công” gồm ba tòa chính: tiền đường (bảy gian), thượng điện (bốn gian) và nhà Tổ (năm gian), tổng diện tích 262 m2 cùng hai nhà hành lang gồm 20 gian với diện tích 196 m2.
Chùa có kết cấu bộ vì kèo theo kiểu thức “chồng rường giá chiêng”. Hệ thống cột chịu lực bằng gỗ lim to, chu vi cột 1,5 m và đều được kê trên chân đá tảng vuông to, mỗi chiều 75 cm để chống mối và chống ẩm.
Giá trị nổi bật của chùa Hoa ương là nghệ thuật điêu khắc, thể hiện ở hệ thống tượng tròn và các tác phẩm điêu khắc gỗ (y môn, tranh kệ, hoành phi, câu đối). Các tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sắc gồm có: 8 bức y môn (biển hoành), 8 bức tranh kệ, 8 bộ hoành phi. Bên cạnh đó, chùa còn lưu giữ một số di vật cổ quý giá.
Chùa Cói
Chùa Cói ngày trước thuộc làng Cói, xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, nay thuộc phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên. Di tích chùa Cói là một tổ hợp đầy đủ của một Phật đường, bao gồm: tam quan, chùa và tháp. Tam quan chùa Cói gồm ba gian nhỏ, gọn, có hệ thống chịu lực chính là mười cột đá xanh nguyên khối được đẽo gọt công phu.Chùa Cói nguyên gốc không còn, nay chỉ còn 12 pho tượng cổ lưu giữ tại ngôi chùa được xây dựng lại vào cuối thế kỷ XX. Tháp Cói có bảy tầng, cao 7,7 m, thu dần từ đế lên đỉnh. Tương truyền, tháp được xây dựng khoảng giữa thế kỷ XVIII, có liên quan tới cuộc khởi nghĩa của Quận Hẻo (Nguyễn Danh Phương, 1740 - 1751).
Như vậy, có thể xác định chùa Cói được xây dựng vào khoảng thời gian từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII. Sau khi dựng hai cây tháp (nay chỉ còn một, do chiến tranh phá hủy), chùa trở thành một tổng thể kiến trúc được Viện Viễn Đông Bác cổ xếp hạng là Di sản văn hóa có giá trị ở Việt Nam (năm 1939).
Tháp
Tháp Bình Sơn
Tháp Bình Sơn nằm trong khuôn viên chùa Vĩnh Khánh, thường gọi là chùa Then, thuộc địa phận thôn Bình Sơn, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô. Đây được coi là ngôi tháp cao nhất, còn nguyên vẹn nhất và là di tích lịch sử văn hóa điển hình của tỉnh Vĩnh Phúc và cả nước. Tháp Bình Sơn đã được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia năm 1962.
DI TÍCH CÁCH MẠNG
Khu căn cứ phía bắc huyện Lập Thạch và Tam Dương
Nhằm chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 - 1945, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã quyết định xây dựng khu căn cứ ở vùng rừng núi phía bắc huyện Lập Thạch và Tam Dương. Nhờ có sự phối hợp hoạt động của hai đại đội vũ trang của Trung ương và Xứ ủy, khu căn cứ bắc Lập Thạch và Tam Dương nhanh chóng được hình thành. Đến tháng 7 - 1945, lực lượng du kích của khu căn cứ đã phát triển lên tới một đại đội. Tại đây đã ra đời lực lượng vũ trang đầu tiên của tỉnh Vĩnh Yên.
Ngày 16 - 7 - 1945, đơn vị giải phóng quân Phạm Hồng Thái, với sự phối hợp của một số lính bảo an yêu nước, nổ súng tiến công đồn Nhật ở khu nghỉ mát Tam Đảo. Sau nhiều giờ chiến đấu ác liệt, đồn Nhật gồm 11 tên đã bị quân ta diệt gọn. Thị trấn Tam Đảo được giải phóng.
An toàn khu Trung ương ở Phúc Yên
Cuối năm 1941, Trung ương quyết định lấy một phần các tỉnh Phúc Yên, Bắc Ninh, Hà Đông, ngoại thành Hà Nội để xây dựng an toàn khu chính thức của Trung ương.
Nhiệm vụ chủ yếu của an toàn khu là bảo vệ cơ quan đầu não của Đảng - Ban Thường vụ Trung ương và bảo vệ các cơ quan Trung ương của Đảng như cơ quan in ấn, cơ quan báo chí... Để thực hiện nhiệm vụ, đội công tác Trung ương bố trí mỗi người phụ trách một khu vực xây dựng cơ sở. Đến giữa năm 1943, đã xây dựng được một hệ thống cơ sở liên hoàn dọc theo sông Hồng về đến Hà Nội. Thời kỳ cao trào tiền khởi nghĩa, an toàn khu đảm nhiệm cả nhiệm vụ chuyển thuốc men, quần áo, vũ khí ra chiến khu. Mặt trận Việt minh, các đoàn thể cứu quốc, đội tự vệ tại các cơ sở trong an toàn khu phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng. Từ năm 1942 đến tháng 8 - 1945, vùng an toàn khu Phúc Yên đã có sáu chi bộ Đảng được thành lập.
Về đấu tranh, theo phương châm của Trung ương đã đề ra, an toàn khu chỉ tiến hành các cuộc đấu tranh hợp pháp nhằm đem lại quyền lợi cho người lao động. Chỉ đến thời kỳ cao trào tiền khởi nghĩa mới có các cuộc đấu tranh lớn như phá kho thóc cứu đói...
Trong quá trình hoạt động, tuy có nơi, có lúc an toàn khu cũng bị địch khủng bố, nhưng các gia đình cơ sở vẫn vững tin ở cách mạng, đảm bảo an toàn cho các cán bộ Thường vụ Trung ương và các cơ quan Trung ương của Đảng.
Nhà in Trần Phú
Năm 1942, cơ quan in báo Cờ giải phóng - cơ quan ngôn luận của Đảng, đặt trụ sở tại làng Viên Nội, huyện Đông anh. Từ giữa năm 1944, một bộ phận của cơ quan in báo được tách ra để thành lập một cơ sở mới chỉ chuyên in các văn kiện, tài liệu của Đảng. Nhà in được đặt tên là nhà in Trần Phú, đặt trụ sở tại gia đình đồng chí Ngô Văn Mạo (con cụ Ngô Văn Phán) ở làng Tráng Việt, tổng Đa Lộc, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc xã Tráng Việt, huyện Mê Linh, Hà Nội.
Từ giữa năm 1944 đến khi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, nhà in Trần Phú đã in được nhiều tài liệu, văn kiện quan trọng của Đảng và Mặt trận Việt Minh như: Chỉ thị về Sửa soạn Tổng khởi nghĩa; Tuyên ngôn, chương trình, điều lệ Mặt trận Việt Minh; Tạp chí Cộng sản; Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; các loại truyền đơn tiếng Việt, tiếng Pháp; Đặc san cứu quốc về vấn đề hải ngoại; Tín phiếu“Tổ quốc ghi công” và nhiều tài liệu khác của Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh...
Nhiều người dân địa phương đã tích cực tham gia phục vụ, hỗ trợ cho hoạt động của nhà in. Với những đóng góp to lớn đó, ngày 8 - 4 - 1991, nhà in Trần Phú thôn Tráng Việt, xã Tráng Việt đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa, cơ sở của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (từ năm 1941 đến năm 1945).
Căn cứ cách mạng Ngọc Thanh
Ngọc Thanh là một xã miền núi của thị xã Phúc Yên, có vị trí chiến lược quan trọng; tháng 4 - 1945, Ban Cán sự tỉnh Phúc Yên quyết định chọn Ngọc Thanh và Cao Minh làm địa bàn xây dựng khu căn cứ cách mạng, giữ vững liên lạc giữa đồng bằng Bắc bộ với chiến khu Việt Bắc. Đồng chí Nguyễn Trọng Duệ được phân công trực tiếp phụ trách xây dựng khu căn cứ.
Đầu tháng 5 - 1945, đồng chí Nguyễn Trọng Duệ vào Cao Minh liên hệ với nhóm Việt Minh ở Cao Quang, rồi từ đây mở rộng cơ sở Việt Minh ra nhiều thôn. Chỉ sau hơn 10 ngày, các tổ chức cách mạng đã được hình thành, thôn nào cũng có Tổ chức Việt Minh, gồm thanh niên, tự vệ, phụ nữ, phụ lão cứu quốc.
Ngày 19 - 8 - 1945, nhận được lệnh của Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Phúc Yên, tự vệ và nhân dân Ngọc Thanh kéo về thị xã, cùng với tự vệ và nhân dân Phúc Yên, Kim anh, Yên Lãng khởi nghĩa giành chính quyền tỉnh Phúc Yên. Ngày 26, 27 và 28 tháng 8 năm 1945, Ủy ban Cách mạng lâm thời lần lượt ra đời ở các xã Thanh Cao, Ngọc Quang và Thanh Lộc. Thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Ngọc Thanh một lần nữa được Trung ương và tỉnh Phúc Yên chọn làm Chiến khu 1 trong Liên khu Việt Bắc. Kể từ đây, chiến khu Ngọc Thanh chính thức được thành lập. Tại chiến khu có nhiều cơ quan Trung ương và địa phương như Kho bạc Nhà nước, Trạm quân y, Xưởng cơ khí... Trong bảy năm hoạt động (1947 - 1954), quân và dân ở chiến khu Ngọc Thanh đã đóng góp nhiều sức người, sức của cho kháng chiến, góp phần đáng kể vào thắng lợi chung của toàn dân tộc. Ngọc Thanh đã được Bộ Văn hóa - Thông tin cấp bằng công nhận Di tích chiến khu.
Di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong thời gian từ 1955 - 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng về thăm Vĩnh Phúc 9 lần.
- Ngày 19 - 5 - 1955, Bác về thăm công trường xây dựng khu nghỉ mát Tam Đảo.
- Ngày 12 - 2 - 1956, Bác về thăm, chúc Tết nhân dân thôn Yên Định, xã Tân Phong (Bình Xuyên), là địa phương có nhiều thành tích trong Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, đồng thời là nơi có chuyển biến tốt sau khi hoàn thành cải cách ruộng đất.
- Ngày 21 - 1 - 1958, Bác về thăm, động viên và trực tiếp tham gia chống hạn cùng Đảng bộ và nhân dân xã Hùng Sơn (huyện Đông anh, lúc đó thuộc Vĩnh Phúc).
- Ngày 30 - 3 - 1958, Bác về thăm Hợp tác xã Lai Sơn (nay thuộc phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên).
- Ngày 21 - 12 - 1958, Bác về thăm cán bộ, nhân dân thị xã Phúc Yên và làm việc với Tỉnh uỷ, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. Bác đã dành thời gian đi thăm lớp bồi dưỡng chủ nhiệm và kế toán Hợp tác xã nông nghiệp do tỉnh tổ chức.
- Ngày 25 - 1 - 1961, Bác về thăm Hợp tác xã Lạc Trung, xã Bình Dương (Vĩnh Tường) là đơn vị có nhiều thành tích trong phong trào “Tết trồng cây”, trở thành điển hình tiên tiến của tỉnh và toàn miền Bắc.
- Ngày 2 - 3 - 1963, Bác về thăm Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phúc do tỉnh có nhiều thành tích trong công tác chống hạn, bảo đảm sản xuất tốt.
- Ngày 16 - 7 - 1963, Bác về dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ III họp tại Vĩnh Yên.
- Ngày 27 - 7 - 1968, Bác lên nghỉ và làm việc tại khu nghỉ mát Tam Đảo.Hiện nay, tỉnh Vĩnh Phúc đã xây dựng khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở một số nơi như thị xã Phúc Yên; phường Ngô Quyền, phường Đồng Tâm, thành phố Vĩnh Yên. Riêng khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại thôn Lạc Trung, xã Bình Dương, huyện Vĩnh Tường được công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia. Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Lạc Trung bao gồm các công trình: Cây đa lưu niệm do Hội nghị ngành Lâm nghiệp toàn quốc trồng năm 1959. Chính tại đây, ngày 25 - 1 - 1961, Bác ngồi nói chuyện với nhân dân thôn Lạc Trung, dưới gốc cây có dựng bia đá ghi lại sự kiện này; ngôi nhà kho 5 gian, nơi đồng chí Trường Chinh gặp gỡ cán bộ xã viên Lạc Trung vào Tết năm 1962, hiện nay dùng làm nơi trưng bày hiện vật, tài liệu, hình ảnh theo chủ đề “Bác Hồ và các đồng chí Lãnh tụ với Lạc Trung, Bình Dương”. Ngoài ra còn có ao cá Bác Hồ, vườn cây Bác Hồ.
Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Lạc Trung là nơi ghi dấu ấn sâu sắc, thiêng liêng về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, đồng thời cũng ghi lại trang sử vẻ vang của địa phương, nơi sớm hưởng ứng phong trào “Tết trồng cây” do Bác Hồ phát động.
Hầm chỉ huy của Bộ Chính trị tại
Tam Đảo
Dãy núi Tam Đảo có trên 10 đỉnh núi, chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Riêng đỉnh núi giữa tiếp giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên là một danh thắng nổi tiếng, đồng thời là địa bàn chiến lược về quân sự, quốc phòng, an ninh. Từ những năm đầu thế kỷ XX, Pháp đã chọn Tam Đảo để xây dựng hệ thống biệt thự, bể bơi, khách sạn, vườn hoa nhằm phục vụ quan lại người Pháp lúc bấy giờ. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tại đây đã diễn ra nhiều trận đánh lớn.
Năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp, chúng đã biến Tam Đảo thành nơi giam giữ hơn 100 người cả Pháp lẫn Việt. Lúc này, thực hiện Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Trung đội Giải phóng quân Phạm Hồng Thái do đồng chí Thạch Sơn chỉ huy đã đánh vào đồn Nhật tại Tam Đảo vào đêm 16 - 7 - 1945, tiêu diệt 11 tên địch và thu được nhiều chiến lợi phẩm.
Năm 1947, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chọn Tam Đảo để xây dựng Sở chỉ huy chiến dịch Trần Hưng Đạo. Đến những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc lần thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã chọn Tam Đảo để xây dựng hệ thống hầm hào trú ẩn. Thứ nhất vì Tam Đảo cách Thủ đô Hà Nội không xa, chỉ khoảng hơn 50 km, lại gần với cái nôi cách mạng - trung tâm huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên; thứ hai, Tam Đảo có núi rừng hiểm trở che chắn, bao bọc, địch khó phát hiện nên rất an toàn. Mục đích của việc xây dựng hầm trú ẩn là để đảm bảo an toàn tính mạng cho các đồng chí trong Bộ Chính trị, khi bị địch bắn phá bằng hỏa lực hoặc dùng máy bay oanh tạc. Hệ thống hầm trú ẩn và hai nhà nghỉ của Trung ương Đảng được triển khai xây dựng và hoàn thành ngay trong năm 1965, do Trung đoàn 600, Bộ Tư lệnh Công binh thiết kế và xây dựng, gồm có 5 hầm: Hầm số 1 tại khu nhà nghỉ biệt thự 18B, do Ban Quản trị Kinh tế, Văn phòng Trung ương Đảng quản lý. Khu nhà nghỉ rộng 600 m2, là nơi làm việc, nghỉ ngơi của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Hầm trú ẩn được thiết kế ngay ở lối cửa phụ của nhà nghỉ. Hầm có hai cửa, một cửa vào và một cửa thoát hiểm. Đường hầm rộng 0,9 m, cao 2 m, có 12 bậc xuống với chiều dài 28 m, được thiết kế hình chữ “Z”, tường chắn xây bằng đá dày 1 m, phía trên nóc hầm được kè một lớp đá dày 9 - 10 m, mặt trên được trồng cỏ và cây xanh xung quanh nhằm che mắt địch.
Hầm số 2, tại nhà nghỉ Trung ương 18B, do Ban Quản trị Kinh tế, Văn phòng Trung ương Đảng quản lý. Hầm trú ẩn được thiết kế gần nhà nghỉ, cửa vào hầm sát liền kề với cửa chính của nhà nghỉ. Hầm dài 27 m, có 20 bậc lên xuống, một cửa vào, một cửa thoát hiểm, đường hầm rộng 0,9 m, cao 2 m, trong hầm có phòng họp rộng 12 m2, toàn bộ được xây bằng đá dày 1 m, trên nóc hầm kè đá dày 9 - 10 m. Đứng ở cửa thoát hiểm dùng ống nhòm có thể quan sát được toàn bộ phía tây của dãy núi Tam Đảo. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, hầm này đã từng được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương sử dụng để họp, chỉ huy vạch kế hoạch tác chiến. Trước đây, trong hầm có trang bị đầy đủ hệ thống điện thoại, điện lưới phục vụ cho công tác lãnh đạo, chỉ huy chiến đấu của Bộ Chính trị.
Hầm số 3 là hầm nhà rộng. Tại đây, cuối năm 1967, Bác Hồ đã về nghỉ và làm việc một thời gian ngắn. Hầm này nằm cạnh sườn núi, được thiết kế theo hình cánh cung, có một cửa vào và một cửa thoát hiểm. Đường hầm dài 26 m, rộng 0,9 m, cao 2 m, được xây kè bằng đá dày 1 m, trên nóc hầm kè lớp đá dày 7 - 8 m. Hiện nay cả hai cửa hầm này đều bị xây bịt kín.
Hầm số 4, nằm phía sau khách sạn Ngôi Sao. Hầm cũng gồm một cửa vào và một cửa thoát hiểm. Đường hầm dài 28 m, rộng 0,9 m, cao 2 m, xây bằng đá dày 1 m. Hầm được thiết kế hình chữ “Chi”, đi lại lắt léo, bí mật, phía trên nóc hầm kè một lớp đá dày 7 - 8 m.
Hầm số 5 (cạnh nhà nghỉ Công đoàn cũ) được thiết kế hình chữ “Z”, dài 26 m, rộng 0,9 m, cao 2 m, trên nóc hầm được phủ một lớp đá dày từ 7 - 8 m.Cả 5 hầm trú ẩn trên tuy được thiết kế ở 5 địa điểm khác nhau, nhưng kết cấu, kiến trúc, kích thước gần giống nhau, tạo thành một thế trận phòng thủ liên hoàn vững chắc.
Hệ thống hầm trú ẩn nằm trên dãy núi Tam Đảo gắn liền với công sức lao động, xây dựng của nhân dân địa phương cùng các chiến sĩ công binh của Trung đoàn 600. Có thể coi hệ thống hầm này là chứng tích lịch sử quan trọng, một địa bàn kháng chiến trong lòng đất đã góp phần vào thắng lợi chung của quân dân Vĩnh Phúc trong những năm kháng chiến chống Mỹ
DANH LAM THẮNG CẢNH
Vườn Quốc gia Tam Đảo
Vườn Quốc gia Tam Đảo có diện tích 35.883 ha, nằm trọn trong dãy núi Tam Đảo, thuộc địa phận ba tỉnh: Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Dãy núi Tam Đảo có trên 20 đỉnh cao từ 1.000 m trở lên; cao nhất là đỉnh núi (nằm giữa ba tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên) cao 1.592 m so với mực nước biển. Địa hình núi Tam Đảo có đặc điểm là đỉnh nhọn, sườn rất dốc, độ chia cắt sâu. Sự khác nhau về đất đai và khí hậu giữa các vùng cộng với sự tác động của con người đã tạo nên sự đa dạng về các hệ sinh thái rừng, các quần thể sinh học và đa dạng về loài ở Vườn Quốc gia Tam Đảo.
Ở Tam Đảo có tám loại rừng và thực bì khác nhau, mỗi kiểu rừng đại diện cho một loại hình lập địa và tương ứng với một tổ thành loài cây nhất định như:
- Rừng kín, thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới.
- Rừng lùn trên đỉnh núi.
- Rừng tre nứa.
- Rừng phục hồi sau nương rẫy, sau khai thác.
- Rừng trồng.
- Loại trảng cây bụi.
- Loại trảng cỏ (trảng cỏ cao và trảng cỏ thấp).
Hệ thực vật Tam Đảo phong phú và phân bố trên nhiều sinh cảnh khác nhau từ trảng cỏ, cây bụi đến cây gỗ trên núi đất, núi đá.
Hệ động vật Tam Đảo cũng rất đa dạng, trong đó có một số loài chỉ thấy ở Vườn Quốc gia Tam Đảo, như: cá cóc Tam Đảo, rùa vàng, gà lôi trắng, voọc đen má trắng, voọc mũi hếch, rắn sải an - gien, rắn ráo thái dương...
Danh thắng Tây Thiên
Khu danh thắng Tây Thiên có diện tích khoảng 148 ha, nằm trên sườn ngọn núi Thạch Bàn, trong khu vực phân bố của Vườn Quốc gia Tam Đảo; về hành chính, nay thuộc địa phận xã Đại Đình, huyện Tam Đảo. Dựa vào núi non và được tạo dựng bởi những bàn tay tài hoa của con người trong nhiều thế kỷ, Tây Thiên đã trở thành một khu danh thắng, một điểm du lịch hấp dẫn của tỉnh Vĩnh Phúc. Nơi đây không chỉ là trung tâm tín ngưỡng tôn giáo lâu đời, một điểm hành hương nổi tiếng mà còn là một thắng cảnh đẹp với môi trường cảnh quan suối thác, cây rừng, chim thú... rất hữu tình, ngày càng được du khách và các tín đồ, phật tử mến mộ.
Từ thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn đã mô tả Tây Thiên trong Kiến văn tiểu lục như sau: “... bên dưới sắc nước như chàm, sâu thẳm không thấy đáy, tre xanh, thông tốt, cảnh sắc thanh nhã, rộng rãi, hồ sen nước xanh biếc có thứ đá lạ và hoa sen đỏ nở bốn mùa, thác từ sườn núi chảy xuống trông như tấm lụa”. Theo tài liệu còn lưu giữ được, nơi đây từng có những công trình kiến trúc tôn giáo truyền thống, trải suốt từ chân lên đỉnh núi đều dựa vào thiên nhiên, góp phần tăng thêm vẻ đẹp bề thế và nên thơ của cảnh sắc chốn này. Đó là chùa Đồng Cổ, đền - chùa Tây Thiên, chùa Phù Nghi, chùa Thiên Ân, am Lưỡng Phong, am Song Tuyền, cầu Đái Tuyết...
Tây Thiên được coi là một quần thể di tích - thắng cảnh tổng hợp. Ở đây có đủ các loại hình di tích lịch sử - văn hóa theo định nghĩa phân loại di tích, gồm: di tích khảo cổ (Đồng Cổ, Thiên Ân...), di tích lịch sử (Bia đá chữ, Đồng Ma, ao Dứa), di tích kiến trúc nghệ thuật (đền Thượng), danh lam thắng cảnh (thác Bạc, suối Vàng). Các loại hình này đan xen với nhau tạo thành một hệ thống di tích - danh thắng đa dạng, hoành tráng. Sự đa dạng đó còn thể hiện tính chất phức tạp trong tín ngưỡng thờ tự, hội tụ cả đạo Phật (chùa), đạo Lão (am), đạo Nho (đền). Tây Thiên trước hết gắn với cửa Phật, ngay từ chính tên gọi địa danh. Theo dân gian, đây chính là miền đất Phật.
Cũng đã có những nhà nghiên cứu cho rằng đây là nơi đạo Phật truyền vào nước ta đầu tiên. Ngoài ra, Tây Thiên thờ Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu, gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu xa xưa. Hệ thống di tích thờ Quốc Mẫu ở vùng này dày đặc, từ đền Cả (đền Trình) thuộc xã Đại Đình, đền Mẫu Sinh, đền Mẫu Hóa, đền Thõng, đền Thượng đến một loạt các đình, đền khác trong vùng lân cận.
Đền Thượng là một di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu trong quần thể di tích - danh thắng Tây Thiên. Đền tọa lạc trên vị trí có độ cao khoảng 800 m so với mực nước biển, trên núi Thạch Bàn, dãy Tam Đảo, thuộc sơn phận Đại Đình, huyện Tam Đảo.
Trong tâm thức của người xã Sơn Đình cũ (xã Đại Đình ngày nay), đền Thượng là nơi ở của Quốc Mẫu Lăng Thị Tiêu và cũng là nơi thờ chính của vị Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu.
Thiết chế thờ tự ở đền Thượng Tây Thiên đã được kiểm kê từ năm 1938 - sau khi viên Chánh tổng Hà Trọng Tuy, người làng Liễn Sơn (Lập Thạch) xin chữa lại di tích đền và chùa Tây Thiên đã đổ nát. Khi đó, đền được xây dựng theo kiểu mới, hình chữ “Đinh” , bên trong được ngăn cách thành hai cung thờ, một bên thờ Thánh, một bên thờ Phật.
Năm 2003, chùa và đền lại được tách thành hai khu riêng biệt, ban Tam Bảo được chuyển đi, nhà đền thiết lập ban Sơn Trang của Mẫu Thượng Ngàn vào thay thế. Ở chính điện có Thần tượng Quốc Mẫu Tây Thiên mang sắc phục màu đỏ; áo và yếm đều màu đỏ. Theo nhà nghiên cứu Lê Kim Thuyên, màu đỏ biểu thị hành Hỏa, phương vị ở phương Nam nóng ẩm, miền của sự trù phú sinh sôi.
Trong nội điện còn có hai pho tượng tọa hai bên tượng Mẫu, dân địa phương thường gọi là “Cô đệ nhất”, “Cô đệ nhị”. Tương truyền, đó là bức tượng Mẫu do cô Ba Tí tạc từ Hà Nội chuyển lên để chọn lấy một pho thờ ở ngôi thủ điện, nhưng do nhiều nguyên nhân, tượng không còn “ứng nghiệm” nên vẫn để ngoài tiền tế. Sau dựng lại đền Tây Thiên mới đem vào đặt cạnh tượng Mẫu và gọi là “Cô đệ nhất”, “Cô đệ nhị” .
Trong đền có hai bức phù điêu “Bát tiên quá hải” (Tám vị tiên vượt qua bể rộng), trang trí thay hai bộ cửa võng: một bên cho Thần từ, một bên cho Phật tự.Đền được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa - danh lam thắng cảnh của quốc gia vào năm 1995. Trải qua thời gian, do bị tác động bởi nhiều yếu tố, đền bị xuống cấp nghiêm trọng. Do vậy, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định đầu tư, trùng tu, tôn tạo. Ngày 26 - 11 - 2009 (ngày 10 - 10 năm Kỷ Sửu), tại khu di tích đền Thượng đã diễn ra Lễ khánh thành đền thờ Quốc Mẫu Tây Thiên. Công trình đã hoàn thành các hạng mục như: Đền thờ chính, Nghi môn, Sân nghi lễ... đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, đảm bảo các yếu tố về kiến trúc, mỹ thuật và tính bền vững, tạo nên một vẻ đẹp hoàn mỹ, hài hòa giữa núi rừng hùng vĩ và làm tăng sức hấp dẫn của khu di tích - danh thắng Tây Thiên.
Ngày nay, Tây Thiên vẫn là một quần thể di tích - danh thắng tổng hợp, liên hoàn các loại hình di tích lịch sử - văn hóa, có quy mô hoành tráng, đa dạng, hấp dẫn.
Khu nghỉ mát Tam Đảo
Cuối thế kỷ XIX, khu nghỉ mát Tam Đảo vẫn còn là một bản của đồng bào dân tộc Dao Quần Chẹt. Từ năm 1914, Pháp xây dựng nhà bằng gạch đá ở Tam Đảo. Vật liệu xây dựng là đá khai thác tại chỗ, mái kết cấu gỗ và trần toóc xi. Nhà nhiều tầng có cầu thang gỗ, sàn dầm gỗ lát ván, hoặc sắt hình liên kết với gạch cuốn (nhà Toàn quyền, nhà ở của cha cố) ngói lợp chở từ Pháp sang như ngói nung Marseille, ngói đá mỏng. Loại nhà này phần lớn nằm ở lòng chảo và sườn núi phía tây. Tới năm 1945, tổng cộng có 143 biệt thự lớn nhỏ. Kể từ đó, Tam Đảo trở thành khu nghỉ mát.
Từ ngày thống nhất đất nước, đặc biệt từ đổi mới đến nay, khu nghỉ mát Tam Đảo được xây dựng với tốc độ nhanh chóng. Đến năm 2006, toàn khu đã có 43 khách sạn, nhà nghỉ với hơn 760 phòng, có thể đón hàng ngàn lượt khách mỗi ngày.
Khu nghỉ mát Tam Đảo là một thung lũng tròn, tựa lưng vào núi Máng Chì; bên trái Máng Chì là núi Nhà Thờ; bên phải Máng Chì là núi Mỏ Quạ. Nhà Thờ - Máng Chì - Mỏ Quạ nối liền nhau hình tay ngai. Dòng suối Bạc từ trên núi chảy xuống chia lũng làm hai phần gần bằng nhau, rồi đổ qua cửa lũng thành thác Bạc, cao 130 m. Trong lũng, các nhà nghỉ, khách sạn, biệt thự... nằm rải vòng tròn từ độ cao 930 m đến 970 m so với mặt nước biển. Cùng với cảnh đẹp, nét đặc biệt của khu nghỉ mát là khí hậu trong lành.
Từ tháng 6 đến tháng 9, nhiệt độ trung bình ban ngày ở Tam Đảo là 22C; ngày nóng nhất cũng chỉ đến 27oC. Ngày hè ở Tam Đảo thường có đủ sắc thái của bốn mùa trong năm. Với không khí trong lành, khí hậu mát mẻ, khu nghỉ mát Tam Đảo là địa điểm lý tưởng cho các hoạt động nghỉ ngơi, điều dưỡng, du lịch...
Khu du lịch Đại Lải
Từ năm 1959 đến năm 1963, cán bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã hoàn thành việc xây dựng công trình đại thủy nông Đại Lải, làm thay đổi hẳn cảnh quan, khí hậu, môi trường của cả một vùng rộng lớn.
Toàn khu du lịch Đại Lải ngày nay có 1.500 ha đất tự nhiên, thuộc hai xã Ngọc Thanh và Cao Minh (thị xã Phúc Yên) gần chân dãy núi Tam Đảo. Trung tâm khu du lịch là hồ Đại Lải với 525 ha mặt nước. Sườn núi Thằn Lằn đã và đang được phủ kín thông, keo, bạch đàn và cây bản địa. Biển nước và rừng cây làm cho khí hậu Đại Lải mát mẻ, dễ chịu.
Khu du lịch sinh thái - vườn cò Hải Lựu
Vườn cò Hải Lựu là một phần còn sót lại của rừng Hải Lựu trước đây, được một gia đình trong thôn bảo vệ, quản lý và có chim, cò bắt đầu về làm tổ từ năm 1958. Tổng diện tích khu vực vườn cò là 15 ha, trong đó khu
vực chim, cò làm tổ là 7 ha.
Vườn cò Hải Lựu tập trung nguồn tài nguyên động - thực vật quan trọng và hấp dẫn của huyện Sông Lô cũng như của tỉnh Vĩnh Phúc. Một số loài chim, cò làm tổ ở đây chiếm ưu thế về tính đa dạng di truyền, gồm các loài như cò lửa, cò lửa lùn, cò bợ, cò ruồi, cò xanh... Thực vật ở vườn cò hiện nay là những cây thuộc hệ sinh thái rừng còn sót lại do hậu quả của việc khai phá đất làm nông nghiệp như: tre, trám, xoan, trẩu, sung, nhãn... Trong đó, tre là loại cây có nhiều loài chim làm tổ nhất do chúng thường mọc thành bụi, có thân rẻo, thuận lợi cho chim làm tổ.
Hiện nay, địa phương đã có quy hoạch tổng thể khu du lịch vườn cò nhằm đánh giá tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm sinh thái của khu vườn cò và xung quanh vườn cò; xác định thời gian tập trung số lượng và biến động số lượng các loài chim trong mùa sinh sản và tập tính kiếm ăn để bố trí các loại hình du lịch hợp lý. Bên cạnh đó, các hoạt động cụ thể như: thống kê, đánh giá thành phần thực vật trong vườn được chim chọn làm tổ để có những biện pháp phát triển rừng; nghiên cứu đặc tính sinh lý của các loài chim và tập tính kiếm ăn của chúng, đào ao, nạo vét hệ thống kênh mương, tạo ra vùng sinh thái ngập nước thường xuyên để tôm cá sinh sôi làm thức ăn cho chim và tạo ra một môi trường sống hoang sơ như chính cuộc sống vốn có của loài chim; hỗ trợ về kinh nghiệm, kinh phí cho chủ vườn trong việc chăm sóc chim non hoặc chim bị thương do mắc câu; xây dựng một vùng đệm quanh vườn cò, đảm bảo khoảng cách an toàn cho hệ động - thực vật trong vườn...
Quy hoạch nói trên một mặt đảm bảo sự an toàn và phát triển bền vững của môi trường sinh thái, mặt khác làm phong phú thêm nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên, phục vụ cho loại hình du lịch sinh thái đang được ngày càng nhiều du khách lựa chọn.
Núi Sáng
Núi Sáng ở địa phận hai xã Đồng Quế và Lãng Công, huyện Sông Lô. Đỉnh núi cao 633 m so với mặt nước biển.
Cảnh quan ở núi Sáng vừa hùng vĩ vừa tráng lệ. Từ đỉnh núi, có một dòng suối chảy xuống, tạo nên nhiều thác ghềnh. Thác Bay là tên của ngọn thác cao nhất, được lấy làm tên chung. Dưới chân Thác Bay có hồ nước nhỏ trong veo, mát lạnh. Thác Bay là tên mới đặt, xưa gọi là thác “Trống đánh quân reo” vì tương truyền nơi này, ông Ngụy Đồ Chiêm chiêu tập quân sĩ chống giặc phương Bắc.
Khu nghỉ Đầm Vạc
Đầm Vạc thuộc thành phố Vĩnh Yên, là một đầm thiên tạo từ hàng nghìn năm trước. Đầm Vạc, kể cả các nhánh luồn lách vào từng xóm, từng phường, xã của thành phố, có tổng diện tích mặt nước lên đến 48,4 km2, đáy sâu, nơi sâu nhất khoảng 4,5 m.
Đầm Vạc nằm ở giữa đồng bằng Vĩnh Phúc, cung cấp nước tưới, nước sinh hoạt cho dân cư nơi đây. Lớp đất sét dày dưới lớp bùn nhão trong lòng đầm là nguồn nguyên liệu cho nghề gốm. Ngoài ra, đầm Vạc còn có các loài động vật nước ngọt như tôm, cua, ốc, ếch, trai...
Đầm Vạc là địa điểm có tiềm năng lớn về du lịch. Hiện nay, khu vực xung quanh đầm có rất nhiều dự án, nhiều công trình mới đã và đang hoàn thành, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch.
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên được xây dựng trên nền móng cũ của Thiên Ân Thiền Tự, một đại danh lam thời Lý - Trần, ở độ cao từ 250 - 300 m so với mặt biển, thuộc vùng núi Tam Đảo - Tây Thiên.
Ngày 4 - 4 - 2004, tức ngày 15 - 2 nhuận, năm Giáp Thân, lễ đặt đá xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên diễn ra tại thôn Đền Thõng, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
Qua 15 tháng xây dựng, một đại danh lam mới được khánh thành và trở thành điểm đến của du khách, phật tử trên mọi miền đất nước.
Tòa chính điện của Thiền viện cao 17 m, với diện tích 673,2 m2(20,4 m x 33 m). Bên trong chỉ có 4 cây cột đỡ mái, tạo không gian cao rộng, sáng sủa, trang nghiêm. Kiến trúc Thiền viện có những mái cong độc đáo và đẹp mắt.
Trên bệ thờ trong chính điện đặt ba bức tượng, thể hiện đường lối tu hành của Thiền viện: Phật tại tâm, cứu cánh của sự tu hành là khai mở tuệ giác, phát triển tâm tư, đi đến giác ngộ giải thoát. Hai bên chính điện, ở phía trước có lầu Chuông, lầu Trống; phía sau là nhà trưng bày, nhà Tổ, nhà khách tăng, trai đường. Xa về phía tả là nhà khách ni.
(Nguồn: Địa chí Vĩnh Phúc- NXB KHXH Hà Nội 2012)