Sau 26 năm tái lập (1997-2023), Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng cao; chính trị, xã hội ổn định. Hình ảnh về vùng đất, con người Vĩnh Phúc ngày càng trở nên tươi đẹp hơn, ấn tượng trong lòng người dân cả nước và bạn bè quốc tế. Vĩnh Phúc thực sự đã trở thành vùng đất đáng sống.
Hội nghị quán triệt và triển khai các nghị quyết của HĐND tỉnh về xây dựng Làng văn hóa kiểu mẫu trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2023-2030
Xuyên suốt các nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh từ khi tái lập đến nay, cùng với tập trung phát triển kinh tế, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đặc biệt coi trọng phát triển văn hóa, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020-2025 xác định phát triển kinh tế luôn gắn với bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của Nhân dân.
Sau nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, vượt qua những khó khăn, thách thức lớn của tình hình thế giới và khu vực, những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 ngay từ đầu nhiệm kỳ, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh giai đoạn 2021-2022 đạt 8,8%, nằm trong top 10 tỉnh có tăng trưởng cao nhất cả nước; tăng trưởng bình quân giai đoạn 2020-2023 ước đạt 8,5%/năm. Quy mô GRDP của tỉnh theo giá hiện hành năm 2021 đạt 137,34 nghìn tỷ đồng và năm 2022 tăng lên 153,12 nghìn tỷ đồng, đứng thứ 6 vùng Đồng bằng sông Hồng và đứng thứ 14 cả nước; năm 2023 ước đạt 160 nghìn tỷ đồng. Giá trị GRDP bình quân đầu người tăng từ 115,2 triệu đồng năm 2021 lên 127,85 triệu đồng/người năm 2022, đứng thứ 5 vùng Đồng bằng sông Hồng và đứng ở vị trí thứ 9 cả nước và năm 2023 ước đạt 132,5-133,5 triệu đồng/người/năm.
Kinh tế phát triển, nguồn lực đầu tư cho an sinh xã hội theo chủ trương của tỉnh được đảm bảo kịp thời, ngày càng tăng, đối tượng chăm lo được mở rộng. Chi đảm bảo an sinh xã hội được tăng cường, năm 2023 giao dự toán 1.009.589 triệu đồng, tăng 1,13 lần so với năm 2022 và gấp 4,45 lần so với năm 2021. Toàn tỉnh đã xây dựng được 364 nhà đại đoàn kết; chi an sinh xã hội đạt 1.745 triệu đồng, tăng 32,2% so với năm 2021. Đặc biệt, trong thời gian cao điểm dịch Covid-19, từ tháng 7/2021 đến tháng 12/2021, tỉnh đã đón hơn 30.000 công dân về quê, thuê 7 chuyên cơ, chủ động đón hơn 1.200 công dân có hoàn cảnh khó khăn đang học tập, sinh sống tại các địa phương có dịch bệnh diễn biến phức tạp về tỉnh. Đối với công dân ở lại các địa phương có hoàn cảnh khó khăn tỉnh đã hỗ trợ tiền mặt và gạo để đảm bảo đời sống của nhân dân.
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 được tỉnh cụ thể hóa bằng các nghị quyết, quyết định, kế hoạch và tập trung thực hiện. Các hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được quan tâm hỗ trợ từ các cấp chính quyền cùng với sự tham gia của các đơn vị, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm. Chính sách hỗ trợ các đối tượng thuộc hộ gia đình không có khả năng thoát nghèo theo Nghị quyết 14/2020/NQ-HĐND của HĐND tỉnh tiếp tục được tổ chức thực hiện tốt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 0,99% năm 2022 và ước thực hiện năm 2023 còn khoảng 0,7%. Tỷ lệ hộ cận nghèo giảm từ 2,1% xuống còn 1,7%.
Công tác bảo trợ, trợ giúp xã hội tiếp tục được quan tâm. Mức chuẩn trợ giúp xã hội của tỉnh cao hơn so với mức chuẩn của Chính phủ, tạo điều kiện đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng mức sống ổn định. Các mức chuẩn trợ cấp xã hội, mức trợ cấp nuôi dưỡng đối tượng được chăm sóc, nuôi dưỡng của tỉnh cao hơn 1,65 lần so với mức chuẩn trợ cấp do Trung ương quy định. Công tác xã hội hóa hỗ trợ đối tượng yếu thế, nhất là người nghèo bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, nhóm người nghèo với mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội so lực lượng lao động ước năm 2023 đạt 45%, vượt mục tiêu trước 2 năm. Tỷ lệ dân số có bảo hiểm y tế ước năm 2023 đạt 94,9% gần đạt mục tiêu Đại hội là trên 95%.
Chế độ chính sách đối với người có công và thân nhân người có công được đảm bảo, kịp thời, thực hiện theo đúng quy trình với 17.500 đối tượng chính sách được chi trả trợ cấp hàng tháng. Các hoạt động thăm hỏi, tặng quà gia đình chính sách, đối tượng cứu trợ xã hội nhân dịp Tết Nguyên đán được triển khai thực hiện tốt, bình quân hàng năm có trên 35 ngàn lượt đối tượng được trao quà với số tiền 70 tỷ đồng/năm. Các hoạt động tri ân các anh hùng, thương binh, liệt sỹ, gia đình và người có công với cách mạng được thực hiện hiệu quả.
Giải quyết việc làm được quan tâm, giảm thiểu tối đa tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm. Bình quân giai đoạn 2020-2023, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho trên 18.900 lao động/năm.
Các hoạt động phòng chống xâm hại, hành hạ, ngược đãi trẻ em được tăng cường, trao hàng ngàn suất quà cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn, trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được các cấp, các ngành triển khai hiệu quả, qua đó đã cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc và Nhân dân vùng miền núi.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được đặc biệt quan tâm, chú trọng bằng các cơ chế, chính sách tăng cường bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ khám, chữa bệnh được đầu tư đồng bộ, hiện đại như Bệnh viện Đa khoa tỉnh (Nhà điều trị nội trú và Nhà kỹ thuật nghiệp vụ và khối phụ trợ); Bệnh viện Sản Nhi tỉnh; Bệnh viện Đa khoa khu vực Phúc Yên; các trung tâm y tế huyện…
Điểm nhấn trong nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII là việc Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TU, ngày 16/3/2023 về xây dựng "Làng văn hóa kiểu mẫu" trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2025 và được cụ thể hóa bằng các Nghị quyết của HĐND tỉnh, Kế hoạch của UBND tỉnh, nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm với quan điểm lấy mục tiêu phục vụ Nhân dân, con người là trung tâm cho mọi quyết định và mọi người dân đều được hưởng thành quả từ sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; người dân có cuộc sống ổn định, ấm no và hạnh phúc. Đến nay, công tác xây dựng "Làng văn hóa kiểu mẫu" bước đầu đạt được những kết quả quan trọng với 28 khu thiết chế văn hóa - thể thao các làng văn hóa kiểu mẫu được phê duyệt dự án; 28/28 làng văn hóa kiểu mẫu trên địa bàn tỉnh đã khởi công, xây dựng công trình, thuộc 9 huyện, thành phố gồm, huyện Bình Xuyên: 3/3 làng; huyện Sông Lô: 3/3 làng; huyện Yên Lạc: 3/3 làng; thành phố Vĩnh Yên: 1 làng (TDP Gò Nọi, phường Định Trung); huyện Tam Đảo: 5/5 làng; thành phố Phúc Yên: 3/3 làng; huyện Vĩnh Tường: 4/4 làng; huyện Lập Thạch: 3/3 làng; huyện Tam Dương: 3/3 làng. Đối với 2 tuyến phố đi bộ của thành phố Vĩnh Yên, cũng đang được các cơ quan chức năng liên quan lập hồ sơ báo cáo nghiên cứu khả thi theo quy định.
Chủ trương xây dựng “Làng văn hóa kiểu mẫu”, người dân đang thực sự là chủ thể, trung tâm và đối tượng được hưởng lợi chính từ thành quả của chủ trương này. Đây thực sự là một chủ trương đổi mới sáng tạo, đột phá, đi đầu của tập thể Thường trực, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc mà người khởi xướng, lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm chính trị cao nhất, dành thời gian, tâm trí, công sức lớn đối với chủ trương này là Bí thư Tỉnh ủy Hoàng Thị Thúy Lan.
Phát huy kết quả đạt được, trong thời gian tới tỉnh tiếp tục đặc biệt quan tâm nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống của Nhân dân, tăng phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và không để bất kỳ ai bị bỏ lại phía sau.
Nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã đi qua, kết quả nổi bật của công tác an sinh xã hội đã góp phần rất quan trọng thực hiện mục tiêu “mọi người dân Vĩnh Phúc đều được hưởng thành quả từ sự phát triển”.
Đình Phúc